11:44 | 17/10/2016
(TGĐA) - NSND Đoàn Dũng tên thật là Nguyễn Anh Dũng, sinh ngày 15/8/1939 tại Hà Nội (ở làng Thanh Miến, hộ Lục, huyện Thọ Xương, ngay cạnh Quốc Tử Giám). Hiện nay vẫn còn nhà thờ Họ ở ngõ Thanh Miến.
NSND Đoàn Dũng
Thời “ô mai sấu” và cái tên Đoàn Dũng
Hồi học tiểu học có một cô bạn cùng trường tên là Đoàn Quế Hương, tóc dài, áo trắng thướt tha… từng làm ông bị hút hồn bởi vẻ đẹp hiền dịu, thanh lịch – một rung động đầu đời trong sáng, ngây thơ theo ông suốt bao năm tháng…
Chập chờn kỷ niệm mùa thu nắng
Còn đó tương tư mãi tận giờ
Chỉ hận người xưa không gặp được
Nên nhiều cay đắng vẫn bơ vơ!
Đến khi lớn lên, trường thành, kỷ niệm thời mơ mộng đó khiến ông quyết định lấy họ của nàng ghép vào tên mình để trở thành Đoàn Dũng đến tận bây giờ, thấm thoắt đã 78 năm trời.
Ông học tại Hà Nội đến năm 1957 tốt nghiệp tú tài (10/10) trung học phổ thông. Năm 1958, có phong trào tình nguyện vào quân đội theo tiếng gọi của Thành đoàn Thanh niên Hà Nội và Thành đội Hà Nội. Hồi đó hào hứng, sôi nổi lắm! Ngày làm lễ chính thức tại Câu lạc bộ Lao động Hà Nội có sự chứng kiến của Thành đoàn và UBND Thành phố (Ngày 10/10/1958 là ngày Đoàn Dũng nhập ngũ trở thành anh lính cụ Hồ). Tất cả được tập trung ở làng Hoàng Mai (quận Hai Bà Trưng) để phân về các đơn vị. Người thì về Thái Nguyên, người thì về Phú Thọ, Yên Bái,… Ông được phân công về Sơn Tây – thủ phủ của pháo binh Việt Nam.
Từ Hà Nội lên Sơn Tây, họ sôi nổi hát suốt dọc đường, quên cả mệt nhọc, chân bỏng rát cũng mặc. Theo đoàn quân có các thanh niên trai, gái đạp xe theo sau cười khúc khích, í ới suốt chặng đường… Nhưng khi đến Phùng thì phải giải tán, mọi người không được đi theo nữa vì phải đảm bảo yếu tố “bí mật”. Lại một cuộc chia tay bạn bè, người yêu bịn rịn, bao nhiêu nước mắt… Những chiếc khăn tay, những lá thư, tấm ảnh trao cho nhau (có cảm giác như ra chiến trường, xúc động thật nhiều…)
Ông cùng đồng đội tiếp tục đi mà chẳng biết điểm đến là đâu... Sau mới biết đó là Sơn Tây! Hào hứng, nhớ nhung, hoang mang cứ lâng lâng rất khó tả… Địa điểm ở vùng đồi (Stôngrát là tên ngày xưa, gần chân núi Ba Vì, thuộc địa phận Sơn Tây). 5 giờ sáng dậy điểm danh, tập thể dục, khi chỉ huy gọi tên ai thì người đó hô to “Có” rất dõng dạc sau thì cười khúc khích rất vui, nhìn nhau bâng khuâng, ngỡ ngàng như học sinh đứng trước thầy cô khi khai giảng năm học mới, nhìn nhau thấy lớn hẳn lên:
Ba đỉnh Ba Vì sương đêm nhẹ phủ
Ngọt như giấc mơ thiếu nữ
Xuân tròn căng ngực tuổi hai mươi.
Sau ba tháng là tân binh (ở lữ 364 C814 F351) được biên chế về C14 E208 F351 Vĩnh Yên. Ở đơn vị mới ông được phân công thêm dạy học văn hóa (ngoài học nghiệp vụ quân đội là trắc địa). Hồi đó các chiến sĩ cán bộ từ đại đội đến tiểu đoàn, trung đoàn thời kháng chiến chống Pháp trình độ văn hóa còn thấp lắm! Đơn vị pháo E208 trong đó có C14 là C chỉ huy gồm có: trinh sát, thông tin trắc địa… Do vừa rời ghế nhà trường đi bộ đội ngay nên ông tiếp thu những kỹ năng, kỹ thuật đặc chủng pháo binh rất nhanh. Thậm chí còn về dạy lại các chiến sĩ nông thôn, thật vui khi vừa làm lính lại vừa làm thầy.
Vở Người cầm súng (Đoàn Dũng trong vai Ivanxadin)
Những năm tháng ở bộ đội đang xây dựng doanh trại, ông đã lao động nhiều đầu việc như đóng gạch, đục đá ở Đồn hang Tuyên Quang, nung vôi, rồi trở về Việt Trì để xây dựng doanh trại. Sau đó còn vác gỗ từ dưới chân núi Tam Đảo lên. Khổ đấy nhưng rất vui khỏe, ăn cơm ba bữa hết gần 1kg gạo như không, sống vô tư với nhiều cung bậc cảm xúc vui đấy, buồn đấy, nhớ nhà, nhớ bạn,…
Thời kỳ ở Vĩnh Yên có một kỉ niệm thật ngây ngô của tuổi trẻ làm ông nhớ mãi. Hôm đó vào ngày Chủ nhật được nghỉ, các lính được ra thị xã Vĩnh Yên chơi, khi qua sân bóng đá của thị xã thì thấy một chiếc máy bay trực thăng đỗ ở đó, có mấy người nước ngoài đang chỉ trỏ lúng túng… Ông tự nghĩ chắc họ cần sự giúp đỡ gì chăng? (Nhanh nhẩu đoảng) chạy xuống xem họ cần gì? (Vì biết đôi chút tiếng Pháp). Khi đến nơi mới biết họ là người Liên Xô (Nga) mà tiếng Nga một chữ ông cũng không biết. Thế là thôi! Về đơn vị không hiểu sao mấy ông cán bộ cấp trên biết chuyện. Gọi ông lên hỏi cho ra nhẽ và cho một trận phê bình nên thân. Thật cũng may chả có chuyện gì! Hồi đó tự nhiên tiếp xúc với người nước ngoài là nguy hiểm lắm, nhiều hệ lụy mà mình không thể ngờ tới. Hồi đó ở Hà Nội mà có chuyện như vậy thì phiền phức lắm vì đang giai đoạn đấu tranh với Nhân Văn giai phẩm…Thật hú vía!
Năm 1959, đơn vị ông được chọn đi duyệt binh mừng lễ độc lập 2/9/1959. Ông và các chiến sĩ phải tập luyện rất vất vả ở sân bay Bạch Mai Hà Nội. Nhưng cũng may đơn vị ông là dân pháo binh ngồi bồng súng trên xe duyệt qua Quảng trường Ba Đình rồi tiếp tục diễu qua các phố Hà Nội. Đang đi thì bỗng nghe thấy mấy tiếng kêu rất to “Thằng Đoàn Dũng kìa”, hóa ra đám bạn học cũ nhận ra ông – một cậu ấm Hà Nội chính gốc ngồi chễm chệ trên xe ôtô, đằng sau kéo một khẩu pháo to đùng thật oách quá…
Năm 1961, Hà Nội có mở hai trường nghệ thuật, đó là: Trường Điện ảnh Việt Nam và Trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Đây là hai trường nghệ thuật đầu tiên mở theo hệ chính quy, đào tạo theo giáo trình của Liên Xô ( Nga). Bạn bè ở Hà Nội viết thư lên đơn vị giục giã ông về thi tuyển. Bên Trường Điện ảnh đã tuyển xong, chỉ còn bên Sân khấu đang tuyển nốt phần thí sinh còn lại. Vì trước khi vào bộ đội ông có tham gia Câu lạc bộ Thanh niên trực thuộc Đoàn Thanh niên Lao động hoạt động văn nghệ: ca nhạc kịch. Bên ca nhạc có các nghệ sĩ như: NSND Trung Kiên, NSND Quý Dương, NSND Trần Hiếu,… còn bên kịch có NSND Đoàn Dũng, NSND Zoãn Hoàng Giang, NSƯT Minh Ngọc,… tham gia biểu diễn khắp nơi để lại những tiếng vang dữ dội không kém gì các đoàn văn công chuyên nghiệp. Thậm chí xuống Hải Phòng biểu diễn có hàng trăm diễn viên ca nhạc kịch tham gia tưng bừng. Chính cũng từ cái nôi này, một số vào Nhạc viện, một số vào Trường Sân khấu học. Tất cả đã tạo nên một thế hệ vàng âm nhạc và sân khấu điện ảnh Việt Nam
Năm 1961 khi về Trường Sân khấu Việt Nam thi tuyển, lúc đó ông vẫn còn ở bộ đội, đơn vị đang có ý định cho đi học Trường Sĩ quan Pháo binh ở Sơn Tây, ông tranh thủ thời gian về trường liều lĩnh đi thi. Khi thi tuyển ông vẫn mặc quân phục. Ban giám khảo gồm các đạo diễn bậc thầy: NSND Giáo sư Tiến sĩ Đình Quang, NSND Đạo diễn Ngô Y Linh (sau này là Nguyễn Vũ), nhà viết kịch Bửu Tiến, cô Kim Oanh (học ở Trung Quốc mới về) và Đạo diễn NSND, chuyên gia Aptansky ở Liên Xô sang giúp trường tuyển sinh. Ban giám khảo yêu cầu ông hãy trình bày tiểu phẩm đi, thế là ông cứ ngớ người không biết tiểu phẩm là gì? chỉ trả lời mới ở đơn vị về không biết! Mọi người cười vui vẻ, sau đó ban giám khảo qua trao đổi hỏi ông có biết hát hay ngâm thơ không? ông trả lời có ạ và xin ngâm một bài thơ: Đợi anh về của Simônốp. Mọi người gật đầu đồng ý, thế là ông say sưa đọc thơ thật diễn cảm. Được hai phần ba bài thì nghe thấy chuyên gia Liên Xô hô “stop”, làm ông sững người, sượng sùng, lúng túng, vụng về… Ban giám khảo bảo “thôi được rồi, đồng chí về chờ kết quả!”
Sau đó ông ra ngoài sân đứng tần ngần không biết làm gì, nghĩ mình khéo trượt mất rồi! Vừa lúc thấy thầy Đình Quang đi ra, ông lấy hết can đảm mạnh dạn hỏi thầy: Thưa đồng chí! Xin phép cho tôi được hỏi một chút có được không ạ? Thầy Đình Quang tủm tỉm gật đầu. Ông nhẹ nhàng hỏi: Tôi có được trúng tuyển không ạ? Và mau miệng nói luôn Tôi phải về đơn vị ngay nhận nhiệm vụ đi học Trường Sĩ quan Pháo binh! Thầy Đình Quang chần chừ một lúc rồi nói: Thôi được tôi sẽ cho đồng chí một cái giấy tạm thời trúng tuyển. Nhưng đồng chí không được cho ai biết vì đây là trường hợp ngoại lệ vi phạm quy chế. Thế là ông mừng quá vâng vâng, dạ dạ.
NSND Đoàn Dũng trong phim Dòng sông thơ ấu
Về đơn vị ông trình bày xin ra quân, cũng may mà ông đã đủ thời gian làm tròn nghĩa vụ quân sự. Đơn vị cũng biết ông có năng khiếu văn nghệ, thường tổ chức đi biểu diễn văn nghệ giữa các đơn vị với nhau hoặc biểu diễn phục vụ cho dân vùng đóng quân. Những lần đó ông mang về cho đơn vị không ít giải thưởng. Hơn nữa ông lại là thầy giáo dạy văn hóa cho các đồng chí lãnh đạo nên cũng được cảm tình và ưu ái. Ông được làm lễ ra quân để về Trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam. Thế mà khi ông về trường học lại chậm hơn các bạn khác đến sáu tháng. Từ đó ông lao vào học vì lòng đam mê cháy bỏng, luôn luôn được lời khen của các thầy cô hết bốn năm học. Ông đỗ loại ưu, được phân công về Nhà hát Kịch Việt Nam.
Về Nhà hát Kịch Việt Nam như diều gặp gió, ông say mê ngày đêm lao vào đọc, học để nâng cao kiến thức. Ở Trường Nghệ thuật Sân khấu Việt Nam hồi đó chương trình, giáo trình đại học của Liên Xô học đủ bốn năm ra trường chỉ là bằng trung cấp, không được công nhận là đại học vì ở Việt Nam lúc đó chưa có Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh. Mãi đến năm 1983, Bộ mới cho phép mở Trường Đại học Sân khấu và Điện ảnh – thầy Đình Quang làm Hiệu trưởng. Ông xin về trường bổ túc kiến thức để được cấp bằng Đại học Sân khấu và Điện ảnh khóa đầu tiên của trường. Sau đó ông thấy mình cần phải nâng cao kiến thức hơn nữa để có thể phân tích tác phẩm và làm nghề, ông đi học Trường Đại học Tổng hợp (Khoa Ngữ văn). Thế là may mắn có được thêm vốn văn học, điều này cũng là cơ sở rất thuận lợicho nghiệp của ông sau này. Thời kỳ bắt buộc cán bộ khung phải học thêm bộ môn Triết trên đại học để làm quản lý và ông đã đỗ thủ khoa. Trong ngày lễ công bố kết quả, đồng chí Bộ trưởng Trần Hoàn (hồi còn sống) đến dự đã ôm chặt ông, coi thành tích đó là điều vinh dự cho Bộ (luận văn của ông là: “Vận dụng phép biện chứng của nhận thức về mối quan hệ diễn viên và nhân vật”).
55 năm chuyện nghề
Năm 1963, khi dựng vở Một đêm giông tố của tác giả (Crarazian – Rumani), thầy Đình Quang phân vai chính cho ông – là ông chủ Đumitrackê. Một vở hài kịch rất hay… Đumitrackê bị vợ ngoại tình, sau khi đi tuần về nhà người tình (Ventruyrianô) trốn mất không bắt được quả tang. Đumitrackê lồng lộn đánh ghen bắt được chiếc gậy cầm tay ở đầu giường vợ (chiếc gậy này thường là vật cầm tay của những công tử quyền quý). Thế là ông đã sáng tạo ra một lớp kịch mới, lấy chiếc gậy đó làm đạo cụ “Nhân cách hóa” như một kẻ tình địch tóm cái gậy, bắt lên vuốt xuống tạo ra một lớp kịch khá thú vị, sống động được hội đồng nhà trường, bạn bè báo giới ca ngợi hết lời. Vào những năm đó là một hiện tượng hiếm hoi vì những lớp kịch đó không có trong kịch bản nên để lại ấn tượng sâu sắc đầu đời của sinh viên được đánh giá xuất sắc.
Vở Những bông hoa anh túc ông đóng vai một người cha đi bán số may mắn tìm ra số phận của một ai đó. Con ông là kẻ xấu, kẻ phản bội. Ông cho nó rút lá số để cảnh báo, cảnh tỉnh con. Ông đã xử lý, tay run không dám nhìn đứa con rút thẻ, tay chân như muốn gãy đổ, lòng đau cuộn thắt, dùng hình thể quay lại diễn bằng lưng, còng xuống đôi vai nặng trĩu đau khổ (hồi đó không ai dám diễn sự đau khổ bằng lưng). Đây là sự táo bạo trong giây phút thăng hoa đột xuất rất được bạn bè đồng nghiệp cũng như truyền thông khen ngợi về một sự tìm tòi độc đáo.
Rồi tiếp đến, Nhà hát dựng vở Khúc thứ ba bi tráng của Liên Xô do nghệ sĩ nhân dân Dương Ngọc Đức đạo diễn, ông đóng vai đầy tớ “Ápđinđa” bị ông chủ keo kiệt đến tận cùng của cuộc đời nghèo khó đến nỗi trước khi ra đi bỏ lại cho người đầy tớ thân cận một chiếc vali nặng trĩu quần áo rách (chi tiết vali quần áo rách là của tác giả quy định như vậy). Nhưng sau bao đêm mất ăn, mất ngủ tìm cách sáng tạo sao cho có hiệu quả, có sức biểu cảm thuyết phục cả hình lẫn thoại? Vậy là ông xin thay chiếc vali quần áo rách bằng vali toàn cành củi bạch dương để khi người đầy tớ khệ nệ bê chiếc vali khi chiếc vali bục ra thì những cành bạch dương kêu lục cục, loảng xoảng giữa sân khấu tạo một hình ảnh đáng thương, gợi cảm đau đớn như xát muối vào lòng khán giả. Tay ông vừa cầm hai thanh củi vừa gõ vào nhau mà độc thoại một đoạn lời gây xúc động thật mãnh liệt, lớp kịch đó khán giả xem vỗ tay ca ngợi, ngỡ ngàng cho sự sáng tạo độc đáo đó. Sau này báo chí phân tích nhiều kỳ kỹ năng sáng tạo hình tượng nhân vật của tôi. Đạo diễn NSND Dương Ngọc Đức và bạn bè đều chia vui cho công lao tìm tòi sáng tạo bất ngờ của tôi, thật vui! Cứ thế từng bước tôi tự xác định hướng đi cho mình, luôn luôn nỗ lực sáng tạo…
Khi dựng vở Người cầm súng một số nghệ sĩ trong đó có ông được sang Liên Xô để nghiên cứu, gặp gỡ NSND Ulianốp – người đóng vai anh lính Ivan, vai chính của vở mà ông được chọn đóng. Một lớp kịch khó ông đã trao đổi với đạo diễn về những phương án diễn lớp kịch đó như thế nào! Anh lính Ivan ở chiến trường về người vẫn đầy bụi bặm súng đạn đi lấy nước cho anh em đồng đội, bất ngờ lạc vào cung điện Kremlin, đang lang thang thì bắt gặp một người đầu hói, ông hỏi thăm rất bỗ bã tìm nước ở đâu? Ông ta mỉm cười và chỉ chỗ lấy nước, anh lính thủy bảo vệ Lênin thấy ông vụng về, thật thà và có vẻ không biết Lênin là ai nên anh ta vừa cười vừa nói: Đồng chí có biết là đồng chí vừa gặp ai không? ông lắc đầu, cười hiền lành nói không biết. Người lính thủy vỗ vai ông bảo đồng chí vừa gặp Lênin đấy! Quá bất ngờ ông ngớ người ra, há hốc miệng không nói nên lời, bất ngờ quá, có bao giờ mình nghĩ là được gặp Lênin đâu! Và quay ra khán giả nở một nụ cười hồn nhiên, chân chất, mộc mạc,…rồi chạy khắp sân khấu hét to “Tôi vừa gặp Lênin” đồng thời thuận tay vứt luôn cái ấm lấy nước và hô to một lần nữa “Tôi vừa gặp Lênin”. Đèn sân khấu tắt, đóng màn kết cho một lớp kịch thật tuyệt vời. Các bạn Liên Xô cùng xem đứng dậy vỗ tay, thích thú khen ngợi hết lời (vì vở này là vở kinh điển ở Liên Xô mà người đóng vai anh lính Ivan đó là NSND Ulianốp rất quen với khán giả Liên Xô). NSND Ulianốp khi đến lớp khó này xử lý khi biết mình vừa gặp Lênin thì tay đánh rơi chiếc ấm xuống sàn mà thôi, không gây hiệu quả bằng lớp diễn của ông. Tôi. Với 1ớp kịch này hồi đó báo chí ca ngợi giây phút xuất thần, báo chí Liên Xô cũng ca ngợi đoạn diễn đó (điều này các bạn học ở Liên Xô khi xem báo rồi báo về cho ông biết). Sau này, khi làm giảng viên của Trường Cao đẳng Sân khấu và Điện ảnh ông cũng lấy kinh nghiệm này làm ví dụ cho sự sáng tạo của người nghệ sĩ để họ biết sự mày mò, kiên nhẫn, tìm tòi, sáng tạo táo bạo thì mới xây dựng được những hình tượng nhân vật để lại dấu ấn trong lòng khán giả.
Vở Lịch sử và nhân chứng của Tất Đạt do đạo diễn NSND Dương Ngọc Đức dựng để đi hội diễn chuyên nghiệp sân khấu toàn quốc năm 1985 ở Thành phố Hồ Chí Minh. Có một lớp kịch tác giả quy định nhân vật công nhân nhà máy điện. Bác Hồ thăm anh em công nhân, Bác vào nhà anh công nhân này, ông đã mạnh dạn đề nghị với đạo diễn cho sáng tạo khác đi. Anh công nhân sáng mắt thành anh công nhân mù mắt để có đất diễn trực tiếp với Bác, được phép sờ má, sờ râu! Thế là vào lớp diễn ông quay ra khán giả, trên tường có treo ảnh Bác…và ông được lần lần sờ tay lên mặt ảnh của Bác và đến khi Bác xuất hiện ông được trực tiếp sờ mặt, sờ râu Bác (nếu sáng mắt thì làm sao dám làm thế). Một lớp kịch táo bạo đến không ngờ, ngay tác giả cũng tâm phục khẩu phục. Với vai diễn này ông được trao tặng huy chương vàng (trong vở chỉ có hai huy chương vàng – vai Bác Hồ và vai anh công nhân của ông– ngoài huy chương vàng của vở).
Năm tháng trôi đi, ông được chuyên gia Bungrari NSND Saxôtrôianốp dựng vở Người đốt đền phân công vai Erostas. Trong quá trình xây dựng vở có rất nhiều vất vả, khó khăn nhưng cuối cùng đã thành công bất ngờ để lại nhiều dấu ấn trong lòng khán giả trong Nam, ngoài Bắc, đi đâu người ta cũng nhắc đến tên tôi Erostas. Cho đến tận bây giờ vẫn có người nhắc đến hình tượng nhân vật bất hủ đó. Có một chi tiết khi nhân vật Erostas tung đồng xu lên rồi ngửa tay bắt lấy đồng xu… Nhiều đêm diễn không sao nhưng có một hôm đang diễn bỗng nhiên nghe thấy một khán giả kêu lên: Nó bắt đồng xu giả đấy! Đêm hôm đó ông về không ngủ được, suy nghĩ mông lung mãi đến gần sáng thì nảy ra được cách xử lý khác đi. Khi tung đồng xu lên ông đỡ lấy vào giữa lòng bàn tay, sau đó cầm đồng xu đưa lên hàm răng cắn và cười ngạo nghễ sau mới úp tay vào xóc xóc xem số phận đỏ đen! Khán giả ồ lên thích thú. Điều này cũng rất đúng với quá trình sáng tạo hình tượng nhân vật, nhiều khi tập mãi ở sàn diễn mà không tìm ra cách xử lý hay, chỉ đến khi khán giả xem và có sự phản xạ của khán giả dội lên, người nghệ sĩ nắm bắt được giây phút đó chắp thêm cánh cho sự sáng tạo của nghệ sĩ có dấu ấn cuộc sống.
Về sau, khi nhận các vai diễn bên điện ảnh, ông cũng mang lên màn ảnh để nghiên cứu diễn sao cho có cá tính, vì điện ảnh rất cần chi tiết tả tính cách nhân vật, xây đắp cho hình tượng nhân vật có đời sống phong phú. Nhân vật và đời sống xã hội trên phim thật gần gũi, chân thực hơn bao giờ hết.
Gặp gỡ Đại tướng Võ Nguyên Giáp trước khi diễn vở Bài ca Điện Biên (Đoàn Dũng thứ 3 từ trái sang cạnh Đại tướng)
Như vở Trừng phạt của đạo diễn NSND Bạch Điệp, ông đóng một anh lính cộng hòa bị điên vì xã hội ruồng bỏ, vợ con thì chết! Đạo diễn Bạch Điệp đề nghị ông sáng tạo ngẫu hứng một phân đoạn không có trong kịch bản: Anh lính điên cộng hòa ngồi giữa bãi cát mênh mông, cô đơn, vô vọng, đặt trước mặt một loạt những mặt nạ mà anh ta tự nói (độc thoại) với những mặt nạ giấy đó về cuộc đời với vợ con (thu thanh ngay tại chỗ). Sau này khi xem lại đoạn ngẫu hứng đó thật bất ngờ, đạt hiệu quả rất tốt. Đây cũng là một kỷ niệm đẹp khi làm phim với NSND Bạch Điệp.
Năm 1984 – Một đêm diễn lịch sử nhân kỷ niệm 40 năm chiến thắng Điện Biên Phủ, Nhà hát Kịch nói Việt Nam dựng vở Bài ca Điện Biên của tác giả Tất Đạt. Nhà hát cử một nhóm đạo diễn: NSƯT Dương Viết Bát, NSND Doãn Hoàng Giang, NSND Đoàn Dũng, NSND Trọng Khôi,… Các ông đã được Bộ Văn hóa đồng ý huy động bốn đoàn nghệ thuật của Hà Nội với số nghệ sĩ 300 người, đông nhất từ trước tới nay. Nhà hát Lớn Hà Nội được dàn dựng thành một chảo lửa – các dân công miền xuôi, miền ngược (đồng bào thiểu sổ) cùng chung vai đi chiến dịch thật hào hùng. Khán giả ngỡ ngàng với không khí đó (nào xe đạp thồ, gồng gánh í ới khắp nhà hát), thậm chí ở ngay tầng thượng của nhà hát cũng vang lên những tiếng gọi của bộ đội truyền tin cho các đơn vị… Alô sông Lô đâu trả lời… Hồng Hà đây… Sông Cầu đâu… tất cả hòa lên như một bản giao hưởng bất tận. Những năm sau này từ khán giả, báo chí (nghệ sĩ tham gia vở diễn) đều vương vấn mãi cho một kỳ tích nghệ thuật mà có lẽ sau này khó có một đêm diễn đầy hào khí như vậy – một lớp kịch mà ông không bao giờ quên trong sự nghiệp sân khấu của mình.
Trong vở diễn có một câu thoại: “Báo cáo Đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp! Chúng tôi đã bắt sống được tướng Đờ Cát vẫn cái mũ nồi đỏ trên đầu, vẫn cầm cái “Canne” (gậy quyền lực) trên tay…”. Câu nói này ở thời kỳ đó rất “nhạy cảm”. Trên chỉ đạo không được nêu tên Đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp mà chỉ được: “Báo cáo tổng tư lệnh mặt trận” mà thôi! Thật khổ! Cả ngày hôm đó từ sáng cho tới sát giờ biểu diễn ông luôn luôn lo lắng, hoang mang – lúc giữ nguyên, lúc cắt, miệng lúc nào cũng lẩm nhẩm… mãi đến tận sát giờ diễn thì được lệnh của Thứ trưởng NSND Giáo sư Tiến sĩ Đình Quang bảo vẫn giữ nguyên. Ôi trời! Núi chì trên vai đã được giải tỏa, với ông thì miệng luôn nhắc đi nhắc lại cho khỏi quên “Báo cáo Đại tướng tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp…”
Điều hạnh phúc bất ngờ khi ông vừa nói xong câu đó “Báo cáo…” thì cả nhà hát đều đứng dậy vỗ tay không ngớt (thời kỳ này cấp trên bảo cắt mà mình lại giữ nguyên thì nguy hiểm lắm, nó ảnh hưởng tới sinh mệnh chính trị, chứ không lơ mơ được!) Ngay hai chiếc vé mời vợ chồng Đại tướng đi xem cũng gay lắm. Nhà hát thì mong muốn Đại tướng đi xem (không biết hai chiếc vé đó có đến tận tay Đại tướng hay không) cho nên nhà hát cử ông và NSƯT Bích Châu lên tận nhà mời Đại tướng đi xem (cho chắc chắn). Việc làm này vi phạm vì đã mời vượt cấp, cũng may cấp trên bỏ qua!
Diễn xong cả đoàn chạy ùa xuống phòng khán giả mời Đại tướng lên chụp ảnh kỷ niệm với anh em nghệ sĩ. Hồi đó Bộ trưởng Văn hóa Văn Phác chỉ thị đồng chí nào làm việc tốt, hiệu quả sẽ kết nạp Đảng ngay (coi như chiến sĩ tham gia chiến dịch). Đạo diễn NSND Doãn Hoàng Giang được ông giới thiệu (người giới thiệu thứ nhất) vào Đảng và NSND Doãn Hoàng Giang được kết nạp ngay.
Điện ảnh và những vai diễn cùng năm tháng
Năm 1960 đang học ở Trường Nghệ thuật Sân khấu thì đoàn làm phim A Phủ mời hai lớp diễn viên Sân khấu và Trường Điện ảnh đi làm quần chúng đóng đồng bào Mèo (Mông). Nhìn thấy hai nghệ sĩ: Đức Hoàn và Trần Phương đóng ông thầm ước ao bao giờ mình được đóng phim như họ, rồi chăm chú xem họ đóng phim mà thèm!
Trong phim Biển lửa
Đến năm 1964, ông được đạo diễn Phạm Kỳ Nam mời đóng vai Đại đội trưởng Toàn trong phim Biển lửa. Phim rất hoành tráng, điều động cả một đoàn quân Âu Phi tham gia. Hồi đó những đoàn quân này họ là hàng binh mình vẫn tạm giam giữ cho họ lao động ở nông trường nên được điều động đi đóng phim họ sung sướng lắm, nhắng nhít cứ như trẻ con. Ông nhớ mãi những chi tiết để đời: đạo diễn yêu cầu ông chèo thuyền tập kết với nhau đi đánh sân bay Cát Bi Hải Phòng. Khốn khổ trời nóng mặc áo trấn thủ quay giữa trưa, lấy ống kính chuyên dụng giả làm đêm trăng. Ông hì hục, loạng choạng không biết chèo thuyền, mồ hôi ướt đẫm. Ở trên bờ đạo diễn cứ hô chèo đi, chèo thẳng. Khốn nỗi thuyền cứ quay ngang không đi đúng hướng máy quay. Lúng túng mãi không được ông đành phải xin với đạo diễn cho buộc dây thừng ngầm dưới nước để kéo cho đúng góc độ máy quay. Không ngờ sáng kiến của ông được chấp nhận, thế là thoát một cảnh vô cùng khó khăn, vất vả (từ đó ông rút ra được một điều thú vị là diễn viên phải thâm nhập thực tế, học làm nông dân, thuyền chài, lái xe, phi ngựa… để khi rơi vào tình huống của phim phải sử dụng những đạo cụ địa phương cho thành thạo mà hồi đó có ai dạy bảo đâu, sau này tiếp cận những phương pháp dạy của phương Tây mới mở mắt ra!. Kinh nghiệm đánh quả nổ cũng vậy, có một cảnh ông phải bê một chiến sĩ cùng đơn vị đang bì bõm lội sông thì có nổ giả làm đạn địch bắn. Nào ngờ quả nổ do bộ phận khói lửa cũng chưa có kinh nghiệm nên họ đặt quả nổ nhiều thuốc quá (thí dụ chỉ cần một lạng thì đặt thuốc hai lạng). Khi đi qua quả nổ to qúa, gây sóng ngầm đánh ngã làm ông bủn rủn cả chân tay. Vậy mà khi ngã nhưng trên tay ông vẫn cố bê đồng đội, rồi vẫn lấy hết sức đứng dậy để thực hiện nốt phân cảnh ấy vì nếu bỏ ngang xương phải quay lại thì phức tạp, ảnh hưởng cả đoàn phim vô cùng… Mọi người đều chia vui vì lòng dũng cảm và ý thức nghề nghiệp rất cao để của ông để vẫn hoàn cảnh quay.
Phim Rừng O Thắm cũng vậy, có nhiều phân đoạn nguy hiểm mà hồi đó kinh phí còn nghèo lại chưa có kinh nghiệm thực tế. Khi lội xuống suối để gánh cầu cho xe ô tô chạy qua, khổ một nỗi không có cọc bảo hiểm cứ nhảy đại xuống mà gánh cầu, thật nguy hiểm chết người mà vẫn vô tư. Gánh cầu cho xe qua rất nặng, sơ sẩy một chút chỉ cần một người không gắng chịu thì cầu sập ngay, ôtô đè lên chết người như không. Cũng vì lòng đam mê đóng phim, thậm chí lại thiếu hiểu biết nữa mà cùng làm liều, nghĩ lại rùng mình, may mắn thoát chết quá sức tưởng tượng.
Khi làm việc với đạo diễn NSND Hải Ninh đóng vai Vệ trong Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, ông đã vào tận giới tuyến Cửa Tùng để quan sát, nghiên cứu nên đã tạo được hình tượng Vệ thật ấn tượng, đến nỗi cái tên đó thành tên đời thường mỗi khi khán giả, bạn bè gặp ông đều đùa gọi Vệ, Vệ…
Năm 1987 khi làm phim Thủ lĩnh áo nâu, ông vào vai cụ Đề Thám, NSND Trà Giang đóng vai vợ Ba của Đề Thám. Có một chuyện cười ra nước mắt: Đến giờ nghỉ ăn cơm trưa ông tháo bộ râu ra để bên cạnh chỗ ngồi và nghĩ rằng ăn xong lại gắn râu vào diễn tiếp. Không ngờ, khi đang mải ăn thì bỗng có một làn gió thổi mà ông chẳng hề để ý, thế là gió cuốn phăng bộ râu của cụ Đề Thám đi đâu mất tiêu… Ăn xong quay lại để lấy râu. Thì ơi thôi… không thấy râu đâu cả, hoảng sợ ông vội kêu toáng lên “Mất râu cụ Đề rồi”. Mọi người tưởng ông nói đùa, nhưng ông thì mặt tái mét không còn một giọt máu… vì nếu mất bộ râu thì cả đoàn phải hoãn quay một thời gian dài vì phải chờ hóa trang đan lại bộ râu…. Thế là cả đoàn tủa ra đi tìm như tìm kim đáy bể, mấy chục con người ai cũng cúi gầm mặt xuống đất, riêng ông vừa cúi gầm mặt vừa bò từng bước một mà tìm “râu cụ Đề”. Phải mất mấy tiếng đồng hồ mới thấy một người trong đoàn hô to thấy “râu cụ Đề” đây rồi. Thật hú vía! Chỉ vì một sơ suất nhỏ …làm hại nguyên cả đoàn. Cuộc sống là vậy, đừng bao giờ vô tình với những chi tiết nhỏ sẽ xảy ra những hệ lụy không lường trước được.
Nhớ lại thời gian đóng phim ông may mắn được gặp bà Hoàng Thị Thế – con gái của Đề Thám ở Pháp về có lên chơi với đoàn phim. Ông mạnh dạn tới gặp bà và có hỏi: Thưa bà thấy tôi đóng hình tượng cụ Đề Thám ra sao, thì thấy bà nghiêng nghiêng mặt, nheo mắt rồi buông một câu tiếng Pháp: Rất tốt!
Đứng bục giảng… vẫn đam mê diễn
Năm 1988, Bộ Văn hóa thông tin điều ông vào Thành phố Hồ Chí Minh làm giảng viên rồi làm Hiệu phó, Hiệu trưởng trường Sân khấu- Điện ảnh ông luôn lấy những kinh nghiệm trong hơn 50 năm sáng tạo để lồng vào bài giảng cho sinh viên nên đạt được những kết quả rất tốt đẹp…
Ông đã biên soạn những chuyên đề để giảng dạy cho các em ở các lớp: đạo diễn, diễn viên, lý luận phê bình… đó là: Phương pháp sáng tạo nhân vật; Sự khác nhau cơ bản khi diễn xuất trước ống kính và sàn diễn sân khấu như thế nào? Vận dụng phép biện chứng của nhận thức về mối quan hệ giữa diễn viên và nhân vật
Phim Tình yêu bên bờ vực thẳm
Đồng thời rút ra những nét cơ bản của nghệ thuật “thể hệ Stanislapsky” để giúp đỡ các em sinh viên nắm những nét chính: “Sống đúng quy định hoàn cảnh”. Sống chứ không phải diễn… Hay: Phải biết “giả thử” mới có cơ sở để tưởng tượng, để sáng tạo.
Biết bao khó khăn ông đều cố gắng vượt qua để làm tốt nhiệm vụ… Tuy nhiên, lòng đam mê được diễn vẫn đeo đuổi ông. Không nề hà phim điện ảnh hay truyền hình và ông tiếp tục hóa thân vào các vai như ông hội đồng, nông dân miền Nam… cho đến Tôn Sĩ Nghị tướng Tàu trong phim Tây Sơn hào kiệt. Thế là một cuộc chinh chiến nữa, một ông nông dân miền Nam –khác xa với ông nông dân Bắc bộ. Từ địa chủ miền Nam cũng khác xa địa chủ phú nông miền Bắc. Một cuộc thể nghiệm nghiêm túc trên trường quay đã mang lại hiệu quả lớn, được bà con cô bác Nam bộ,hay trong giới truyền thông ấn tượng, khi ông này mất hết vàng, tiền do bà vợ trẻ lấy rồi trốn theo trai. Đây là một trường đoạn thú vị, nó thể hiện tính bủn xỉn, keo kiệt của một tay trọc phú. Ông đã yêu cầu thiết kế làm một chùm chìa khóa có sợi dây đeo lủng lẳng bên mình nhưng phải có túi vải nhung bọc lấy chùm chìa khóa, tiền vàng thì bỏ vào một hộp khảm trai có bọc vải điều. Tất cả để đầu tư cho nhân vật ngay từ ngoại hình để khán giả thấy ngay sự keo kiệt, bủn xỉn quá đáng. Rồi tới cả hành thái khi đếm tiền từng tập một, ông đem kẹp vào chân như bà bán hàng ở ngoài chợ, hay đến đếm vàng có thói quen đưa lên răng cắn cắn, cười khà khà thích thú sung sướng… Tất cả chi tiết đó được đạo diễn và anh em trong đoàn khen ngợi là thầy biết khai thác chi tiết quan trọng để thực nghiệm, tả rõ tính cách nhân vật. Nhất là ở phim Tây Sơn hào kiệt trong vai Tôn Sĩ Nghị – tướng Tàu ngạo mạn, ông dùng tiếng cười (trong nghệ thuật tuồng để thể hiện tiếng cười ngạo mạn rất hiệu quả) rồi tiếp sau đó là tiếng nói bằng tiếng Tàu và có tiếng Việt thuyết minh ngay cạnh đó, song song hai thứ tiếng gây một ảo giác rất hiệu quả, thú vị cho khán giả xem…
Trải qua những năm tháng vừa là diễn viên, đạo diễn rồi chuyển sang làm thầy giáo thật lắm gian truân! Vinh quang và cay đắng, vui buồn xen kẽ (cũng như biết bao số phận nhân vật mà ông từng xây dựng, sáng tạo). Đạt được điều đó là do cả quá trình ông kiên trì, mày mò, say mê và không ngừng học hỏi để luôn sáng tạo. Suốt cả cuộc đời chỉ biết đi “tìm”, học hỏi, tích lũy, quyết tâm phải làm bằng được những điều mơ ước hằng ấp ủ “Hôm nay phải hơn hôm qua nhưng không bằng ngày mai”. Cả một cuộc đời dâng hiến “giá trị của mỗi người là anh phải dám sống hết mình cho một điều gì đó”, phải dành trọn vẹn đời mình để nâng niu, quý trọng hình tượng nghệ thuật mà mình sáng tạo ra.
NSND Đoàn Dũng được kết nạp vào Đảng năm 1982 và đã được Nhà nước phong tặng các danh hiệu:Nghệ sĩ ưu tú đợt (một) năm 1984; Nghệ sĩ nhân dân đợt (bốn) năm 1997; Năm 1999, được Chủ tịch nước trao tặng Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhì ; Huân chương Lao động Hạng nhì; Bằng khen của Bộ về danh hiệu Giảng viên dạy giỏi cấp Bộ. Ngoài ra còn có Huy chương vì sự nghiệp Nghệ thuật Sân khấu; Huy chương vì sự nghiệp Nghệ thuật Điện ảnh; Huy chương vì sự nghiệp Văn học Nghệ thuật Một số vở diễn tiêu biểu: Một đêm giông tố, Nguyễn Văn Trỗi, Bên hàng rào Tà Cơn, Sang sông, Âm mưu và tình yêu, Trưởng giả học làm sang (Molière), Những bông hoa anh túc, Bay trước mùa xuân, Hận thù từ đâu tới, Chuông đồng hồ điện Kremlin, Khúc thứ ba bi tráng, Người cầm súng, Người cha thô bạo, Vụ án người đốt đền (Êrôstas), Nghêu Sò Ốc Hến, Nhân danh công lý, Nila cô gái đánh trống trận, Đêm đen Hoa pháo, Câu chuyện tình yêu Lịch sử và nhân chứng, Đôi mắt, Bài ca Điện Biên…. Về Điện ảnh có các phim tiêu biểu: Bức tường không xây, Biển lửa, Độ dốc, Rừng O Thắm ,Ngõ hẹp, Cha và con, Em bé Hà Nội, Tình yêu bên bờ vực thẳm, Vĩ tuyến 17 ngày và đêm, Thủ lĩnh áo nâu (Đề Thám), Trừng phạt, Dòng sông thơ ấu, Trái đắng, Nàng Hương, Nguyễn Đình Chiểu, Ngọn tháp Hà Nội, Đất và lửa Ninh Thành Lợi, Đứa con kẻ tử tù, Tây Sơn hào kiệt, Nàng Xê Đa….
|
Vũ Liên
5 ngôi sao từ bỏ hào quang
Jonathan Taylor Thomas
Jonathan Taylor Thomas tham gia lồng tiếng trong The Lion King và là một thành viên không thể thiếu của show truyền hình nổi tiếng Home Improvement gắn liền với tuổi thơ của nhiều người. Tuy nhiên, năm 2005, anh đã rời bỏ sự nghiệp diễn xuất ngắn ngủi của mình để tập trung vào việc học.
Greta Garbo
Greta Garbo bắt đầu sự nghiệp diễn xuất năm 19 tuổi. Nữ diễn viên người Thụy Điển được xem là một trong số ít diễn viên chuyển từ phim câm sang phim có tiếng và thành công với các vai diễn Madame Camille, Mata Hari, và Anna Karenina. Dù không biết tiếng Anh, Greta vẫn có thể có những biểu cảm độc đáo làm say lòng khán giả. Sau khi tham gia 28 bộ phim, Greta Garbo quyết định về hưu ở tuổi 36 với lý do đã "mệt mỏi với Hollywood".
Shirley Temple
Shirley Temple là một trong những ngôi sao trẻ nổi tiếng nhất mọi thời đại. Cô tham gia tới 44 bộ phim trước khi tròn 12 tuổi. Tuy nhiên, Shirley quyết định nghỉ hưu vào năm 1950, khi cô mới 22 tuổi và tập trung vào sự nghiệp chính trị. Shirley trở thành đại diện của Hoa Kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Đại sứ Hoa Kỳ tại Cộng hoà Ghana, và là Đại sứ Hoa Kỳ tại Tiệp Khắc (cũ)
Rick Moranis
Nhiều trẻ em lớn lên cùng với những bộ phim ăn khách mà anh tham gia như Honey I Shrunk the Kids và The Flintstones. Rick Moranis cũng là ngôi sao trong nhiều phim hành động gay cấn. Năm 1990, vợ của anh qua đời vì bệnh ung thư. Đây là một mất mát lớn đối với Moranis vì thế ông quyết định về hưu để dành thời gian nuôi dạy con cái. Trong những năm gần đây, Moranis tham gia lồng tiếng trong bộ phim Brother Bear của Disney, và đã thu âm một album nhạc đồng quê.
Deanna Durbin
Deanna Durbin đóng phim lần đầu tiên vào năm 1936. Khi đó cô mới 15 tuổi và là nữ diễn viên ngôi sao của Hãng MGM bên cạnh nam tài tử nổi tiếng Judy Garland. Mặc dù muốn đóng dạng vai tâm lý phức tạp nhưng Deanna Durbin lại chỉ được giao những vai kiểu “girl-next-door”. Không may, những phim này đã không hiệu quả như trước. Deanna về hưu ở tuổi 28 và từ chối tất cả các lời mời biểu diễn cho đến khi qua đời ở tuổi 91vào năm 2013.
Đường dẫn: https://thegioidienanh.vn/nsnd-doan-dung-va-nhung-cau-chuyen-nghe-kho-quen-8096.html
© Copyright 2022 Hội điện ảnh Việt Nam