Giáo dục toàn diện

(TGĐA) - Nhiều khi tôi hay nói đùa rằng tại sao ta làm gì thấy cũng xâu xấu. Từ những sản phẩm bậc vĩ mô như chiếc xe diễu hành dịp đại lễ Nghìn năm Thăng Long, kiến trúc không gian đô thị, sân khấu trong trường quay truyền hình cho đến những tiểu tiết như bộ đồng phục của học sinh và công chức, từ những sản phẩm văn hóa tinh thần đại trà như tờ báo tuần cho đến những sản phẩm vật chất là gói kẹo hay chai nước mắm…Thậm chí phục trang của người nổi tiếng xuất hiện trước truyền thông đại chúng đôi khi cũng thấy kỳ kỳ….Ngẫm cho kỹ thì đây không còn là một câu nói đùa nữa, mà là một chủ đề nghiêm túc.

Có vài bận, tôi giới thiệu các nhóm sinh viên của mình đi thực tế tại các sự kiện. Sau đó, người của các công ty nghiêm khắc phản hồi lại “Cô nên nhắc nhở các em ăn mặc cho đẹp. Bởi vì sự kiện của công ty thường diễn ra tại các khách sạn năm sao, có sự tham dự của nhiều quan khách quốc tế. Nếu không lần sau chúng tôi buộc phải đình chỉ việc thực tập này”. Tôi lúng túng thanh minh và giải thích rằng thì là trước đó tôi đã dặn các em rất kỹ rằng các em không nên đi dép lê, không mặc đồ jean khi tham dự sự kiện. Đầu tóc phải để gọn gàng, không nhuộm rực rỡ.

shutterstock_73512394

Thì tôi cũng chỉ biết dặn dò đến thế. Ở các bữa tiệc phương Tây, người ta thường ghi chú ở dòng cuối cùng trong giấy mời để yêu cầu về trang phục của khách, ví như “Cravate noire” thì người đàn ông phải mặc com lê đen và phụ nữ mặc váy dài, “Smoking” thì đàn ông mặc áo đuôi tôm, phụ nữ mặc váy đẹp ngày lễ, “Tenue de soirée” thì đàn ông mặc com lê sẫm màu, bên trong là sơ mi trắng và phụ nữ mặc áo vest ở ngoài áo sơ mi, vân vân và vân vân.

Thế hệ trẻ cần phải được hướng dẫn và rèn luyện như thế nào để có chỉ số IQ-EQ-CQ cao, đáp ứng yêu cầu của những công việc hoàn toàn mới và nhanh chóng thích nghi với một thế giới hội nhập đang thay đổi từng ngày? Hay cuối cùng lại vẫn chỉ là học nhiều mà thu được chẳng bao nhiêu.

Người đã quen với việc này rồi thì cứ thế mà tuân theo. Đây chỉ nói “ăn mặc đẹp” thì biết giải thích làm sao cho các trò hiểu. Trò cũng phàn nàn rằng “Họ bảo chúng em phải mặc váy công sở, nhưng chúng em không biết phải chuẩn bị trang phục như thế nào cho vừa ý họ”. Tôi cũng băn khoăn với điều này. Liệu khi đã mua một bộ váy công sở rồi thì các em có được công nhận là “ăn mặc đẹp” hay không? Liệu một chiếc váy có thể giải quyết tận gốc vấn đề hay chỉ tạo ra một quan niệm nhầm lẫn đối với các em rằng “váy thì đẹp còn quần thì không đẹp”. Hơn nữa, đẹp hay không đẹp là một khái niệm phức tạp, nhạy cảm và tế nhị. Để giải thích thành công điều này nếu không khéo léo thậm chí còn gây ra sự hiểu lầm.

Trong khóa dạy PR tại một trường đại học, tôi thường nói với các sinh viên của mình rằng “Các em phải luôn nhớ một điều nằm lòng rằng nghề của chúng ta luôn luôn phải đẹp. Bởi vì một trong những chức năng chính của PR là tạo dựng, duy trì, phát triển hình ảnh và uy tín của cá nhân, tổ chức đối với công chúng. Chúng ta không được phép xấu, ngay từ cách trình bày văn bản, thư tín, website, tờ rơi cho đến phục sức, hành vi, nói năng… đều không thể xấu”.

“Phải đẹp” là một yêu cầu về hành vi. Nhưng để thay đổi được điều này là cả quá trình kéo dài từ Nhận thức – Thái độ - Hành vi. Mà gốc rễ của nó là nhận thức. Các trò của tôi nếu bị buộc tội không “mặc đẹp” thì đó đâu phải là lỗi của các em. Là lỗi của giáo dục đấy chứ. Trong số các tư duy nhận thức thì có lẽ tư duy về thẩm mỹ là khó thay đổi nhất và nhận thức thẩm mỹ muốn được giáo dục cho tốt thì phải được thực hiện từ tấm bé.

Chúng ta vẫn ghi rõ trong mục tiêu ngành rằng giáo dục toàn diện Văn-Thể-Mỹ. Nhưng khi được hỏi thế nào là Mỹ thì nhiều người bảo Mỹ là Mỹ thuật. Thành thử ra, toàn bộ phần giáo dục về tư duy thẩm mỹ cho học sinh chỉ gói gọn1-2 tiết/tuần loanh quanh ở việc trang trí đường diềm, vẽ tả thực cái phích, con gà trống, chú bộ đội. Chưa kể hầu hết các giáo viên mỹ thuật chỉ vẽ mẫu để các em sao chép rồi chấm điểm, không hề có những giáo cụ trực quan sinh động để học sinh nhận thức được rằng màu X mà phối với màu Y sẽ cho ra một kết quả kinh khủng như thế nào về mặt thẩm mỹ. Tư duy thẩm mỹ không chỉ thể hiện ở mặt thị giác, mà còn là hệ mỹ học liên quan đến mọi lĩnh vực nghệ thuật. Sự cảm thụ chính xác về âm nhạc, điện ảnh, kiến trúc, văn học, ẩm thực… sẽ tạo cho các em một mỹ cảm tốt có thể làm nền tảng cho suốt cuộc đời còn lại.

f3

Vì thế, các trường học ở phương Tây vô cùng chú trọng đến những hoạt động ngoại khóa như thăm quan viện bảo tàng nghệ thuật, cho các em tự làm phim, khuyến khích các em thành lập ban nhạc, tổ chức các cuộc thi điêu khắc, thiết kế, sáng tác văn học, khiêu vũ… Các em cũng được đăng ký theo học bộ môn nghệ thuật mà mình thích. Chúng ta hầu như đã bỏ trắng phần này trong giáo dục nhà trường. Nhà trường đã vậy, gia đình cũng không quá coi trọng việc giáo dục tư duy thẩm mỹ cho trẻ em. Họ sẽ thấy có lý khi con em mình tham khảo tiểu sử một nhà khoa học kiệt xuất hơn là tiếp cận với tác phẩm nghệ thuật của một nghệ sĩ bậc thầy.

Nhắc đến giáo dục toàn diện Văn – Thể - Mỹ không thể không nói đến giáo dục thể chất. Trước nay học sinh từ bậc tiểu học đến trung học thường được học tuần hai tiết thể dục, còn bậc đại học theo cách học “cuốn chiếu”, thể dục cũng “cuốn chiếu”. Nghĩa là trong suốt nhiều tuần liền, sinh viên đến trường tập thể dục một thôi một hồi suốt sáu tiết đồng hồ, để rồi những năm còn lại không cần đến thể dục nữa. Bậc phổ thông, các trò thực hiện những động tác thể dục buổi sáng bên cạnh các môn thể dục đơn điệu như ném tạ, nhảy xa, nhảy cao… Bậc đại học có thêm môn chạy nước rút và chạy đường dài.

Để hình thành nên nhận thức và tư duy về thẩm mỹ, không còn cách nào khác là phải thường xuyên tiếp xúc với cái đẹp, bước tiếp theo mới là trực tiếp sáng tạo nên cái đẹp. Nhiều bậc phụ huynh cũng như giáo viên còn tỏ ra khó chịu khi thấy con em mình muốn ăn mặc đẹp. Đi học cần vở sạch chữ đẹp chứ cần gì quần áo đẹp. Quần áo đẹp đồng nghĩa với đua đòi, a dua, lười học. Những đứa trẻ biết vâng lời từ nhỏ lâu dần bị triệt tiêu toàn diện về tư duy thẩm mỹ, cũng tin vào chân lý “phải xấu" này.

Nhiều sinh viên xưa nay chẳng quen vận động bao giờ, sáng đến lớp, chiều chúi đầu vào máy vi tính, nay phải chạy ba vòng quanh sân vận động trường, khối người ngất xỉu vì quá sức. Học trò vì thế vừa chán vừa sợ thể dục. Nhiều sinh viên nghỉ tiết thể dục, hoặc chỉ đến điểm danh rồi lừa lúc thầy không để ý mới trốn về. Nhiều thầy rút kinh nghiệm, một buổi học điểm danh ngót hai lần, cả lúc đầu giờ lẫn cuối giờ. Điều này lại khiến tôi nhớ đến “Tinh thần thể dục” của nhà văn Nguyễn Công Hoan, trong đó ông lý trưởng than phiền “Người ta cho xem đá bóng chứ ai làm gì mà cũng phải bắt… Cho đi xem đá bóng chứ ai giết chết mà phải trốn như trốn giặc.”

song3

Cuối cùng giáo dục toàn diện chỉ còn đặt trọng tâm vào Văn, trong Văn có nội hàm Kiến thức – Thái độ - Kỹ năng. Nhưng sau này người ta lại chợt giật mình khi thấy nhiều thủ khoa đại học ra trường không thích nghi nổi với môi trường công việc thực tế, nhiều thí sinh tham dự các cuộc thi sắc đẹp cấp quốc tế lúng túng trước phong thái tự tin và ứng xử nhuần nhuyễn của các hoa hậu nước người. Các nhà giáo dục mới cuống cuồng bổ sung môn kỹ năng sống (soft skills) vào trong chương trình giảng dạy. Vì ở các nước phương Tây, trẻ em được giáo dục kỹ năng sống từ bậc tiểu học để thích nghi với môi trường tự nhiên và xã hội, chứ không phải đến bậc đại học mới tìm hiểu xem kỹ năng sống bao gồm những gì. Ngày nay, các công ty đa quốc gia yêu cầu cả chỉ số EQ (Emotion Quotation – Chỉ số cảm xúc) và CQ (Creation Quotation – Chỉ số sáng tạo) từ ứng cử viên, không chỉ đơn thuần là IQ (Intelligence Quotation – Chỉ số thông minh) như trước kia nữa./

Di Li