Nghệ thuật cải lương và đờn ca tài tử trong phim

(TGĐA) - Là một phần trong cuộc sống đời thường và văn hóa của người miền Nam, nghệ thuật cải lương và đờn ca tài tử đã tự nhiên đi vào phim ảnh như một “nhân vật chính” để các nhà làm phim chuyển tải những tâm tư, tình cảm của mình.

nghe thuat cai luong va don ca tai tu trong phim 'Song Lang' sẽ nối tiếp 'Hai Phượng' trở thành ‘hiện tượng phòng vé’ tại nước ngoài?
nghe thuat cai luong va don ca tai tu trong phim Điện ảnh Việt: Một loại phim cho một loại khán giả!

Những bộ phim đậm chất miền Tây

Việc đưa nghệ thuật cải lương và đờn ca tài tử lên phim đã được nhiều đạo diễn thực hiện. Năm 1961, bộ phim nhựa 35mm đen trắng Bẽ bàng chuyển thể từ vở cải lương nổi tiếng Nửa đời hương phấn do đạo diễn Thái Thúc Nha thực hiện. Tuy không mấy thành công do trình độ kỹ thuật làm phim còn yếu kém nhưng Bẽ bàng cho thấy nghệ thuật cải lương đã trở thành đề tài được các nhà đạo diễn điện ảnh quan tâm. Có thể nói, bộ phim đầu tiên của điện ảnh Cách mạng Việt Nam thời kỳ đổi mới lấy chủ đề về nghệ thuật cải lương Nam bộ là phim Đoạn cuối thiên đường dựa theo truyện Bàn thờ tổ của một cô đào do cố NSND Hồng Sến thực hiện. Trước đó, trong một số phim điện ảnh của mình như Mùa gió chướng, Cánh đồng hoang, Vùng gió xoáy, Hòn đất, ông đã luôn cài cắm, điểm xuyết các trường đoạn biểu diễn đờn ca tài tử như một cách thể hiện sự đam mê của mình về bộ môn nghệ thuật này và khiến cho các bộ phim trên mang dấu ấn đặc trưng của văn hóa, con người miền Tây Nam bộ...

Với phim truyền hình, nghệ thuật cải lương và đờn ca tài tử manh nha sớm hơn, từ ngay sau ngày miền Nam giải phóng và chủ yếu xuất hiện trong những bộ phim truyền hình được chuyển thể từ tiểu thuyết của nhà văn Hồ Biểu Chánh. Năm 1989, khi làm phim Ngọn cỏ gió đùa (kịch bản chuyển thể từ tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh), đạo diễn Hồ Ngọc Xum đã đưa đờn ca tài tử - nét văn hóa đặc trưng của Nam bộ vào phim. Sau đó hầu như các phim của ông đều điểm xuyến những phân, trường đoạn đờn ca tài tử. Bộ phim Nợ đời là phim truyền hình đầu tiên của vị đạo diễn gắn bó với những tác phẩm của Hồ Biểu Chánh có yếu tố cải lương. Trong bộ phim này, để trích đoạn tuồng xưa, đạo diễn Hồ Ngọc Xum đã đặt nghệ sỹ Bảy Bá (tức soạn giả Viễn Châu) viết bài hát tổng kết toàn bộ cuộc đời nhân vật trong phim. Khi thực hiện phim Cay đắng mùi đời (nói về ông thầy dạy đờn/đàn), đạo diễn Hồ Ngọc Xum đã phải đặt viết tới 26 điệu cải lương cho phim dựa trên 3 nhạc cụ bắt buộc phải sử dụng khi sáng tác là đờn/đàn kìm, đờn/đàn cò và đàn tranh.

nghe thuat cai luong va don ca tai tu trong phim
Leon Quang Lê trên trường quay phim Song Lang

Đất nước bước vào giai đoạn mở cửa, lĩnh vực sản xuất phim đang từng bước trở thành ngành công nghiệp với các thiết bị máy móc làm phim ngày càng hiện đại, đã xuất hiện các phim có sử dụng kỹ xảo, phim có hiệu ứng đặc biệt… nhưng nhiều nhà làm phim trẻ, mới vào nghề đã mạnh dạn chọn đề tài truyền thống khi để nghệ thuật cải lương xuất hiện như là một phần quan trọng tạo nên đứa con tinh thần của họ. Bộ phim Sài Gòn anh yêu em (2016) của đạo diễn Lý Minh Thắng đề cập đến 5 câu chuyện đặc trưng Sài Gòn, trong đó có câu chuyện về một cặp vợ chồng nghệ sỹ cải lương gạo cội luôn vun vén và giữ gìn bộ môn nghệ thuật này trong dòng chảy xô bồ của cuộc sống. Một phần đời sống cải lương đã được phục dựng và tái hiện trên phim tinh tế tới từng chi tiết từ cách người nghệ sỹ chuẩn bị hóa trang, phục trang cho tới cách họ luyện thanh và trình diễn… đã giúp cho Sài Gòn anh yêu em có màu sắc rất riêng, hấp dẫn và ấn tượng.

Năm 2018 vừa qua, có tới 3 dự án điện ảnh về đề tài cải lương được giới thiệu đến công chúng gồm: Gạo chợ nước sông (đạo diễn Huỳnh Anh Tuấn), Song lang (đạo diễn Leon Quang Lê) và Nửa đời hương phấn của đạo diễn Đỗ Thành Anh. Trong đó phim Song Lang đã công chiếu, hai phim còn lại đang trong quá trình sản xuất. Cả ba bộ phim được thực hiện nhân kỷ niệm 100 năm bộ môn nghệ thuật cải lương hình thành và phát triển. Nội dung vở Nửa đời hương phấn của hai soạn giả nổi tiếng Hà Triều – Hoa Phượng viết vào cuối thập niên 1950 tại Sài Gòn sẽ được điện ảnh hóa. Phim Gạo chợ nước sông được chuyển thể từ truyện ngắn Cuối mùa nhan sắc của nhà văn nữ Nguyễn Ngọc Tư, lấy bối cảnh những năm 1970, thời kỳ hoàng kim của cải lương Việt Nam, kể về một cô đào làm nghề hát cải lương. Cũng như vậy, phim Song Lang xoay quanh câu chuyện về hai nghệ sỹ trẻ nhờ có chung niềm đam mê với nghệ thuật cải lương nên đã tìm thấy sự đồng điệu trong tâm hồn, cảm xúc. Phim công chiếu đã thu hút được sự chú ý của đông đảo khán giả và giới mộ điệu. Đạo diễn Leon Quang Lê cho biết, Song Lang không phải là một bộ phim “về” cải lương, hoặc về “sự tích cái song lang”. Chiếc song lang và cải lương ở đây chỉ là cái tứ được mượn để truyền tải nội dung câu chuyện. Người làm phim cũng không ôm đồm, mong truyền tải kiến thức, giáo dục, hoặc kêu gọi sự cần thiết phải bảo tồn bộ môn nghệ thuật cải lương… Chính vì điều này giúp giảm bớt cảm giác “giáo huấn” cho khán giả khi xem phim. Anh cũng chọn phục dựng cải lương của thập niên 1980, được xem là thời vàng son sau cùng của cải lương, cũng là thời điểm của môn nghệ thuật mà bản thân anh đã được xem tận mắt, nghe bằng chính tai mình và làm cho anh say mê thực sự.

Nhân vật chính quan trọng

Để yếu tố cải lương trong phim vừa mang dấu ấn văn hóa đặc trưng vừa đảm bảo tinh thần của câu chuyện phim, có thể nói, các đạo diễn đã biết cách phối hợp nhuần nhuyễn các yếu tố: Nội dung - cấu trúc phim có sự liên kết hợp lý với yếu tố cải lương; Các ca từ, bài bản, giai điệu… phù hợp với bối cảnh, phục trang, câu chuyện đúng giai đoạn lịch sử; và dĩ nhiên, lời ca – linh hồn của nghệ thuật cải lương – giàu cảm xúc. Ngoài ra, người làm phim cũng đã kết hợp yếu tố cải lương với yếu tố hiện đại để người xem dễ tiếp cận. Chẳng hạn, nếu bối cảnh phim diễn ra ở thời điểm trước năm 1945 thì không thể có những bài vọng cổ và tân cổ giao duyên mà phải dùng những bài bản tổ như: Dạ cổ hoài lang, Trường tương tư, Phụng cầu hoàng vv… Cuối cùng việc cài cắm yếu tố cải lương cần vừa đủ để khán giả dễ cảm thụ, tránh rườm rà bi ai dễ bội thực, nhàm chán. Nói như đạo diễn phim Song Lang thì thời lượng cải lương trong phim được tính toán cân nhắc để đủ thỏa mãn các khán giả ái mộ, nhưng cũng không quá dài để gây nhàm chán cho những người không phải dân mộ điệu. Và điều quan trọng nhất, đó là cải lương trong phim phải được đưa về với đúng chất lượng như yêu cầu bắt buộc, ví dụ: dàn tân và cổ nhạc phải xây dựng đầy đủ nhạc cụ; Nhạc sĩ phải giữ đúng lối đàn chân phương, ngọt ngào, bài bản, súc tích, hợp lý với ca từ trau chuốt; Sân khấu, hóa trang, phục trang được đầu tư kỹ lưỡng và phù hợp.

nghe thuat cai luong va don ca tai tu trong phim
Leon Quang Lê và diễn viên chuẩn bị một cảnh quay cho Song Lang

Là một đề tài giàu chất liệu, nhưng cải lương được đánh giá là khó khai thác khi đưa vào phim vì thế mỗi đạo diễn, khi bắt tay vào làm phim, đều trải qua quá trình nghiên cứu kỹ lưỡng và có những cách thức riêng để điện ảnh hóa cải lương qua câu chuyện cũng như việc thực hiện các khâu phục trang, đạo cụ, bối cảnh… một cách hợp lý, thuyết phục. Leon Quang Lê cho biết, ngoài những dữ liệu được thu thập trên internet, anh đã tìm tới các nghệ sĩ, nghệ nhân, nhạc sĩ gạo cội trong nghề, những người đã từng sống và làm việc vào thời hoàng kim của cải lương trong thập niên 1980 để nhờ họ giúp đỡ. Việc chọn vải, kim sa, chọn mẫu phục trang, mão, phụng, đạo cụ, bối cảnh bài trí sân khấu cũng được chú trọng. “Chỉ riêng phần hóa trang, từ độ dày của bộ lông nheo giả, độ đỏ của son môi, cách vẽ nhân trung, cằm chẻ đều được theo dõi kỹ để tái hiện đúng nhất về cải lương của 30 năm về trước”, đạo diễn Leon cho biết. Ngoài ra, ca từ trong các phân đoạn cải lương trong phim đều được anh và soạn giả Hoàng Song Việt viết mới hoàn toàn, để tránh bị trùng lặp và so sánh với những nghệ sĩ gạo cội từng biểu diễn các vai diễn đó. Phần tân nhạc và cổ nhạc cũng được đầu tư và hòa âm với đủ các nhạc cụ của một đoàn hát những năm 1980.

Rõ ràng việc khai thác chất liệu truyền thống dân tộc, cụ thể là cải lương, loại hình ca nhạc cổ truyền của người dân Nam bộ trong lĩnh vực điện ảnh phục vụ khán giả, đặc biệt là giới trẻ có một ý nghĩa lớn. Vậy, với cá nhân những người làm phim, họ đã tìm thấy sự đồng cảm với chủ đề này như thế nào? Câu trả lời chính là tình yêu và niềm đam mê thực sự. Có thể nói, với đông đảo người miền Nam, cải lương chính là sợi dây vô hình giữ lại cho họ cốt lõi Việt của mình. Xem phim Song Lang, có cảm giác người làm phim đã cho mình cơ hội được trở về tuổi thơ, làm sống lại và hoàn thành một giấc mơ nghệ thuật dang dở khi họ không hề đao to búa lớn, gắn những trách nhiệm nặng nề to tát như mong muốn làm sống lại cải lương, hay cố làm cho khán giả trẻ hiểu và yêu cải lương hơn mà đơn giản chỉ vì cải lương có màu sắc, hương vị rất Việt Nam nên rất cần được nâng niu gìn giữ.

nghe thuat cai luong va don ca tai tu trong phim 'Song Lang' sẽ nối tiếp 'Hai Phượng' trở thành ‘hiện tượng phòng vé’ tại nước ngoài?
nghe thuat cai luong va don ca tai tu trong phim Điện ảnh Việt: Một loại phim cho một loại khán giả!

Thảo Nguyên