Thực trạng điện ảnh Việt Nam sau 15 năm thực hiện nghị quyết TW khóa 5 và một số kiến nghị

(TGĐA) - LTS: Ngày 15/1/2014, Ban Bí thư TƯ Đảng đã tổ chức Hội nghị tổng kết Nghị quyết TƯ 5 Khóa VIII. TS Ngô Phương Lan, Cục trưởng Cục Điện ảnh đã trình bày tham luận và nhận được sự quan tâm của Hội nghị. Tạp chí TGĐA xin đăng tải toàn văn tham luận.

Phim_Sng_cng_lch_s

Phim Sống cùng lịch sử

Trước hết, tôi xin khẳng định sự nhất trí cao với Báo cáo tổng kết Nghị quyết TƯ 5 Khóa 8 của Ban Bí Thư TƯ Đảng và bày tỏ sự vui mừng khi trong báo cáo có sự quan tâm đến điện ảnh, thậm chí đề cập đến việc hiện đại hóa nền công nghiệp điện ảnh của Nhà nước!

Nghị quyết TƯ 5 Khóa 8 về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc gắn bó chặt chẽ với điện ảnh Việt Nam. Trong hơn một thập kỷ, khẩu hiệu thường gặp tại các Liên hoan phim quốc gia là: “Vì một nền điện ảnh Việt Nam tiên tiến, đậm đã bản sắc dân tộc”. Đây là định hướng đúng đắn đối với điện ảnh Việt Nam, vì bản chất của điện ảnh Việt Nam là một nền điện ảnh tiên tiến về cách nhìn nhận và phản ánh cuộc sống, như nhiệm vụ được Bác Hồ giao trong sắc lệnh thành lập Ngành Điện ảnh CM năm 1953. Điện ảnh Việt Nam gắn với vận mệnh của dân tộc, vừa là nhân chứng trên mỗi chặng đường lịch sử, vừa là người bạn đồng hành của nhân dân. Cùng với tính chất tiên tiến, điện ảnh Việt Nam cũng mang bản sắc dân tộc trong nhiều tác phẩm điện ảnh, thể hiện đậm nét những đặc điểm nổi bật, bản chất của con người và xã hội Việt Nam bằng những hình tượng, thủ pháp và ngôn ngữ điện ảnh phù hợp với tâm hồn và tình cảm người Việt Nam.

Như vậy, Nghị quyết TƯ 5 Khóa 8 có ý nghĩa soi rọi cho sự phát triển của điện ảnh Việt Nam. Trong 15 năm thực hiện Nghị quyết TƯ 5 Khóa 8, điện ảnh đã đạt được một số thành tựu nhất định. Tuy nhiên, thực trạng điện ảnh cũng tồn tại rất nhiều hạn chế, yếu kém bởi điện ảnh đã và đang phải đối mặt với vô vàn khó khăn. Trong tham luận này, chúng tôi xin được khái quát một số thành tựu, phân tích những hạn chế, yếu kém của điện ảnh, đồng thời đề xuất một số kiến nghị cấp bách để vực ngành điện ảnh đi lên.

1. Thành tựu:

1. Một số bộ phim do nhà nước đặt hàng và tài trợ sản xuất về đề tài chiến tranh cánh mạng, phản ánh quá khứ hào hùng của dân tộc đạt chất lượng nghề nghiệp cao (Đừng đốt, Sinh mệnh, Mùi cỏ cháy, Những người viết huyền thoại…); nhiều bộ phim thành công về nghệ thuật và có tính nhân văn, đạt giải tại các Liên hoan phim trong nước và quốc tế (Đời cát, Mùa ổi, Bến không chồng, Thung lũng hoang vắng, Mùa len trâu, Thời xa vắng, Trăng nơi đáy giếng, Chơi vơi…). Đó là những tác phẩm ít nhiều mang phẩm chất “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, tuy nhiên số lượng các tác phẩm có giá trị như vậy không nhiều, nhất là trong vài năm gần đây, khi việc Nhà nước đặt hàng và tài trợ cho phim truyện giảm sút, thậm chí có năm tạm ngưng vì nhiều lý do.

Phim_Trng_ni_y_ging

Phim Trăng nơi đáy giếng

2. Chủ trương xã hội hóa hoạt động điện ảnh được phát huy cao độ khiến diện mạo điện ảnh Việt Nam trong 15 năm qua trở nên đa dạng, phong phú; thị trường điện ảnh phát triển mạnh. Theo thống kê của Hiệp hội điện ảnh Mỹ (MPA) và công ty Megastar, doanh thu điện ảnh tại Việt Nam năm 2000 là 2 triệu đôla, năm 2010 là 26 triệu, năm 2011 là 35 triệu, năm 2012 là 47 triệu, 2013 là trên 57 triệu.

3. Vị trí của các hãng phim tư nhân ngày càng rõ rệt: Số lượng hãng phim tư nhân tăng vọt, đến hết tháng 6/2013 cả nước có 252 hãng phim, trong đó 90% là hãng phim tư nhân. Phim tư nhân dần chiếm tỉ lệ áp đảo trong tổng số phim Việt Nam phát hành ở rạp (từ chỗ mỗi năm chỉ có 1-2 phim, đến nay phim tư nhân chiếm 80-90%) và thu hút lượng khán giả lớn (có phim đông người xem hơn và đạt doanh thu cao hơn phim “bom tấn” cúa Mỹ chiếu cùng thời điểm, đạt đến 60 tỉ). Một số phim tư nhân gần đây được đánh giá khá cao về tay nghề. Số lượng phim sản xuất năm 2013 tăng mạnh (lên đến 26 phim so với 16 phim của năm 2011, 2012), trong đó chủ yếu là phim tư nhân (chỉ có 2 phim của hãng phim nhà nước).

Cnh_trong_phim_ng_t

Phim Đừng đốt

4. Các nhà làm phim trẻ xuất hiện dần tạo nên dấu ấn của lớp đạo diễn thời hội nhập bên cạnh thế hệ đạo diễn thời kỳ đổi mới. Các đạo diễn trẻ có những thử nghiệm đáng ghi nhận với các dòng phim khác nhau: phim nghệ thuật, phim giải trí, phim độc lập…

5. Sự xuất hiện đồng thời và liên tục của các đạo diễn Việt kiều đã làm cho điện ảnh VN có những mầu sắc mới. Trong vài nắm trở lại đây, phim của các đạo diễn Việt kiều chiếm tỉ lệ cao ở rạp, nhiều phim thương mại doanh thu cao bên cạnh một số phim được đánh giá khá về tay nghề, kỹ thuật, kỹ xảo.

6. Hệ thống văn bản pháp quy về điện ảnh dần hoàn thiện: Luật Điện ảnh năm 2006 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh năm 2009 ; Nghị định số 54/2010/NĐ-CP của Chính Phủ năm 2010 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Điện ảnh và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Điện ảnh. Các văn bản này tạo hành lang pháp lý cho hoạt động điện ảnh, quy định một số chính sách về sản xuất, phát hành phổ biến phim…

5. Chính phủ, Bộ VHTTDL quan tâm chỉ đạo xây dựng Chiến lược phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 (đã được Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định phê duyệt ngày 11/11/2013); Quy hoạch phát triển điện ảnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 vừa được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch trình Thủ tướng Chính phủ vào cuối tháng 12/2013. Điện ảnh là ngành nghệ thuật đầu tiên xây dựng thành công Chiến lược và Quy hoạch.

2. Yếu kém, bất cập và nguyên nhân:

Mặc dù có NQ TƯ 5 nhưng cơ chế thị trường định hướng XHCN ngoài một số mặt tích cực, năng động nhưng cũng có nhiều mặt trái, tác động tiêu cực đến điện ảnh, đặc biệt xu hướng chạy theo lợi nhuận, sự “chụp giật” làm nghiệp dư hóa hoạt động điện ảnh; trong khi một số nước trong khu vực xây dựng nền công nghiệp điện ảnh một cách khá bài bản thì điện ảnh Việt Nam lại thiếu đồng bộ, thiếu chuyên nghiệp; sự đầu tư ngày càng hạn chế của Nhà nước vào sáng tác và sản xuất phim khiến cho phẩm chất “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” của tác phẩm điện ảnh có sự phai nhạt trong những năm gần đây. Thực trạng cụ thể:

1/ Các cơ sở điện ảnh nhà nước chủ yếu trông vào kinh phí tài trợ và đặt hàng làm phim của nhà nước. Trong 2 năm nay kinh phí sản xuất phim truyện từ nguồn ngân sách nhà nước tạm ngưng do cơ chế đầu tư tài chính chưa có sự thống nhất giữa các Bộ, khiến cho các hãng phim gần như “ngắc ngoải”, hoạt động trì trệ, đội ngũ tan tác đi “làm thuê” cho các hãng phim tư nhân hoặc truyền hình. Những người “bám trụ” chỉ được hưởng mức lương thấp kỷ lục (có hãng phim nhiều năm nay chỉ trả theo mức lương tối thiểu là 650.000 đ). Sự tâm huyết, say mê sáng tác giảm sút rõ rệt.

2/ Lực lượng sáng tác trẻ chưa có sự vững chắc về phong cách và có sự phân tâm trong sáng tác và chưa thực sự tâm huyết vì còn mải chạy theo “tiền tươi thóc thật”. Các đạo diễn Việt kiều chịu ảnh hưởng rõ rệt văn hóa Mỹ, bắt chước điện ảnh Mỹ trong khi chưa có ý tưởng thực sự sâu sắc, chưa có bề dày văn hóa và thiếu vốn sống Việt Nam. Một số người chưa tôn trọng pháp luật Việt Nam, ngạo mạn, dễ phản ứng tiêu cực và thích kích động “fan” hâm mộ chỉ trích các quy định quản lý và kiểm duyệt. Các phim bị cấm trong thời gian qua đều của các đạo diễn Việt kiều.

3/ Nhiều hãng phim tư nhân chạy theo thị hiếu một bộ phận khán giả, sản xuất các phim giải trí dễ dãi với mục đích thu lãi lớn. Bên cạnh một số ít phim đạt chất lượng nghề nghiệp thì hầu hết là phim câu khách rẻ tiền, ít có giá trị nhận thức, giáo dục hay thẩm mỹ, nhiều phim được truyền thông gọi là hài nhảm hay thảm họa; có phim lạm dụng yếu tố bạo lực, tình dục hoặc xoáy sâu vào hiện tượng cá biệt, cái xấu, góc tối, “xã hội đen”, thậm chí kích động bạo lực… Hội đồng duyệt phim đã phải cấm phổ biến 2 phim là Bẫy cấp 3 (năm 2012) và Bụi đời Chợ Lớn (2013).

Cnh_trong_phim_Nhng_ngi_vit_huyn_thoi

Phim Những người viết huyền thoại

4/ Những năm gần đây, do số lượng phim “nhà nước” ngày càng giảm, khiến cho trên thị trường không có nhiều tác phẩm hướng đến chân thiện mỹ mà chủ yếu là các phim thương mại chiếm lĩnh rạp chiếu dẫn đến thị hiếu khán giả có phần đi xuống. Khán giả, nhất là khán giả trẻ chỉ thích xem các phim giải trí - thậm chí phim “tầm phào”, và thờ ơ với những phim truyền thống, phim có giá trị (phim Mùi cỏ cháy khi ra rạp hầu như không có khách, phim Những người viết huyền thoại không thu hút được khán giả, phải ngưng chiếu sau 1 tuần).

5/ Trong thời đại bùng nổ thông tin, các trang mạng xã hội, thậm chí cả báo chí truyền thông- đặc biệt là báo mạng- vì mục đích “câu view” đã có những lúc phản ảnh thiếu khách quan, khi thì “tâng bốc” quá đáng, khi thì suy diễn, chụp mũ các hiện tượng làm nhiễu loạn dư luận và ảnh hưởng đến hoạt động điện ảnh. Bên cạnh đó, công nghệ thông tin trong “thế giới phẳng” tạo nhiều đột phá nhưng cũng làm gia tăng nguy cơ ăn cắp bản quyền điện ảnh.

6/ Việc tuân thủ cam kết quốc tế khi Việt Nam gia nhập WTO phải xóa bỏ hạn ngạch nhập phim dẫn đến nguy cơ xâm lấn của phim nhập ngày càng cao (năm 2011: 107 phim nhập, năm 2012: 126 phim, nắm 2013 có 183 phim nhập được trình duyệt, cấm 13 phim, vẫn còn 170 phim được phép phổ biến so với 26 phim Việt Nam. Trong khi đó, Trung Quốc quy định hạn ngạch nhập phim nên chỉ cho phép phat hành 64 phim nhập/năm so với phim sản xuất trong nước là gần 900 phim). Đa số khán giả thích xem phim ngoại, nhất là phim Mỹ, sau đến phim Hàn Quốc. Tỷ lệ phim Mỹ chiếu rạp áp đảo phim Việt (khoảng 60-70% phim chiếu rạp). Điều này dẫn đến những thách thức rất khó vượt qua trong việc sản xuất và phổ biến phim “nội”, nghĩa là khó bảo vệ nền Điện ảnh dân tộc.

7/ Việc phổ biến phim chiếu tại rạp chủ yếu do các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nước ngoài điều tiết và chi phối (Luật Điện ảnh và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Điện ảnh cho phép các cơ sở điện ảnh có rạp được nhập khẩu phim truyện nhựa; hai công ty chiếm thị phần rạp và phát hành- phổ biến phim lớn nhất là công ty nước ngoài, được cấp giấy phép kinh doanh tại Việt Nam 25 năm ). Việc nhập khẩu phim gắn với phát hành và quản lý rạp đã tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến việc áp đặt giá thuê phim, điều kiện đưa phim vào rạp..., vì thế cũng ảnh hưởng lớn đến việc phát hành các bộ phim của nhà nước.

8/ Chưa có sự công bằng trong hưởng thụ điện ảnh giữa thành thị và nông thôn. Nguyên nhân: các công ty nước ngoài, công ty tư nhân chỉ đầu tư xây rạp và kinh doanh ở các thành phố lớn. Tại các địa phương, trang thiết bị và cơ sở vật chất của hầu hết các rạp nhà nước đều cũ, lạc hậu chỉ có thể chiếu phim nhựa trong khi cả thế giới chuyển sang rạp kỹ thuật số. Hiện tại các rạp này thu không đủ bù chi, nguồn phim hạn chế và bị động, phụ thuộc vào các công ty tư nhân và nước ngoài. Vì vậy, khán giả ở các địa phương, đặc biệt là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, miền núi, biên giới hải đảo ít có điều kiện được thưởng thức các tác phẩm điện ảnh.

9/ Trung tâm điện ảnh - phát hành phim và chiếu bóng địa phương gặp nhiều khó khăn, đến cuối năm 2013 đã có 12 địa phương “xóa sổ” trung tâm điện ảnh để sáp nhập vào các cơ sở văn hóa khác. Các trung tâm còn lại quản lý hệ thống rạp lạc hậu, cố gắng tồn tại bằng cách liên kết với cơ sở sản xuất, nhập khẩu phim để chiếu tại rạp và chủ yếu làm nhiệm vụ phát hành băng hình, đĩa hình phim phục vụ đồng bào miền núi, vùng sâu vùng xa do Cục Điện ảnh cung cấp và thực hiện các tuần phim, đợt phim kỷ niệm.

10/ Luật Điện ảnh và các văn bản dưới luật chưa thực sự đi vào cuộc sống: Luật, Nghị định đã có từ nhiều năm, tuy nhiên, một số văn bản quan trọng chưa được ban hành do chưa có sự đồng thuận của một số Bộ liên quan với Bộ VHTTDL (Ví dụ: Thông tư liên Bộ VHTTDL- Tài chính hướng dẫn đấu thầu sản xuất phim có sử dụng ngân sách nhà nước; Đề án Quỹ hỗ trợ phát triển điện ảnh) nên định hướng của nhà nước chưa phát huy được hết tác dụng, nhất là đối với các địa phương.

3. Đề xuất, Kiến nghị

Hiện nay, Ngành điện ảnh đang đối mặt với những khó khăn to lớn ở hầu hết các lĩnh vực. Một số chính sách dành cho ngành điện ảnh không phù hợp và chưa được quan tâm thích đáng. Thị trường sản xuất và phát hành phim khó định hướng. Cần có sự hỗ trợ nhiều hơnn của nhà nước hỗ trợ để có thể định hướng sáng tác, sản xuất, phát hành và phổ biến phim, xây dựng, cải tạo nâng cấp hệ thống rạp đạt tiêu chuẩn, từ đó ngành có thể xây dựng tác phẩm đạt chất lượng cao, có giá trị giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ cho công chúng. Cụ thể:

1- Nhà nước cần có chính sách ưu đãi về thuế và cơ chế đặc thù cho các cơ sở điện ảnh s