Công trình giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ ngành Điện ảnh năm 2010

(TGĐA) - Đầu năm 2012, tin vui bay đến Hội điện ảnh: PGS.TS Trần Quang Ngọc, hội viên Hội điện ảnh Việt Nam, nguyên viện trưởng Viện kỹ thuật điện ảnh và video Việt Nam đã vinh dự được nhà nước trao tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học và công nghệ cho công trình “nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ ngành điện ảnh phục vụ kháng chiến bảo vệ tổ quốc và phục hồi kinh tế sau chiến tranh”. Tạp chí Thế giới điện ảnh xin chúc mừng thành công của PGS.TS Trần Quang Ngọc xa gần bản tóm tắt những cống hiến của ông cho ngành điện ảnh.

Tên cụm công trình: “Nghiên cứu phát triển và đổi mới công nghệ ngành điện ảnh phục vụ kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và phục hồi kinh tế sau chiến tranh”.

Tác giả công trình: PGS. TS. Trần Quang Ngọc, hội viên Hội Điện ảnh Việt Nam. Người sáng lập, nguyên Viện trưởng Viện Kỹ thuật Điện ảnh và Video Việt Nam; học Liên xô học từ năm 1960, sau đại học, chuyển tiếp nghiên cứu sinh, tốt nghiệp Tiến sỹ kỹ thuật Điện ảnh năm 1969. Suốt thời gian chiến tranh và nhiều năm sau hoà bình là Tiến sỹ duy nhất của ngành, có trách nhiệm giải quyết những vấn đề do chiến tranh và thực tiễn khó khăn đề ra, bảo đảm các hoạt động khoa học kỹ thuật của ngành.

Nội dung công trình: Ngành điện ảnh phát triển trên cơ sở khoa học kỹ thuật. Trong chiến tranh, và cả những năm sau hoà bình, cơ sở của ngành rất nghèo. Điều kiện đặc biệt của chiến tranh Việt Nam đòi hỏi những thứ, ngay cả các nước có nền công nghiệp hiện đại cũng khó có thể đáp ứng được ngay.

giaithuonghcm

PGS-TS Trần Quang Ngọc nhận huân chương lao động của Nhà nước

Cụm công trình đã tạo ra những thiết bị, những nguyên vật liệu, những quy trình công nghệ, những giải pháp đặc biệt, bảo đảm sản xuất phim, bảo vệ phim, phổ biến phim đến quần chúng; cả trong vùng địch tạm chiếm, vùng đồng bào các dân tộc, ra các nước trên thế giới.

Tác giả chưa bao giờ dừng bước trước khó khăn, kể cả trường hợp tưởng chừng như không thể giải quyết, hoặc hầu hết cho rằng không thể làm được.

Giải pháp của các công trình không giống của nước nào, phù hợp với Việt Nam, rất hiệu quả. Sau này hội nhập, một số công trình đăng ký, được công nhận là Sáng chế cấp Quốc tế.
Có vấn đề Điện ảnh Thế giới đặt ra từ hơn nửa thế kỷ trước, lần đầu thực hiện ở Việt Nam, được Thế giới công nhận. Báo Nhân dân ngày 3/6/1990 đưa tin: Tác giả là người có nhiều bằng Sáng chế (Quốc tế) nhất Việt Nam khi đó.

Cụm công trình có 3 bằng Sáng chế cấp Quốc tế, 1 bằng độc quyền Giải pháp Hữu ích, 1 Huy chương Bạc, 1 Huy chương đồng, 2 Giấy Chứng nhận Quyền Tác giả của UB KHKT Nhà nước, và các Giấy khen của BCH Liên hiệp Công đoàn các Cơ quan TW, Bộ Văn hoá –Thông tin.
Một số công trình cụ thể:

Chế tạo máy in phim chiến trường. Thời chiến tranh, các nghệ sỹ vào Nam ra trận như những chiến sỹ. Nhiều người đã hy sinh. Điều đau xót là phim quay được bằng xương máu nghệ sỹ, khi gửi ra Bắc lại bị bom đạn địch đánh phá làm mất trên đường Trường sơn, hoặc bị hỏng do thời gian, khí hậu khắc nghiệt. Làm sao khắc phục được tình trạng này? Giải pháp hữu hiệu là in phim ngay tại chiến trường, gửi ra Bắc cho đến khi nhận được.

PGS._TS._Trn_Quang_Ngc

PGS.TS Trần Quang Ngọc

Thiết bị in phim thường nặng hàng vài trăm cân, cần buồng tối, điện, đèn và nhiều thiết bị phục vụ đưa máy vượt Trường sơn vào Nam là chuyện khó, việc sử dụng thiết bị nặng, phức tạp trên chiến trường cài răng lược luôn biến động, còn khó hơn. Tác giả đã thiết kế một máy in phim đặc biệt: gọn nhẹ có đủ tính năng cơ bản để in phim; không cần điện, đèn, buồng tối và các thiết bị phục vụ phức tạp. Toàn bộ máy nặng 3-4 kg. Máy đã vào Nam inđược nhiều phim gửi ra Bắc, dàn dựng phục vụ trong nước và Quốc tế. Làm cả phim chiếu tại chỗ phục vụ kịp thời miền Nam. Máy hoạt động tốt cho đến ngày chiến thắng. Trên Thế giới không đâu có máy in phim như vậy.

Nghiên cứu sản xuất phim 8 mm. Trước đây, chính quyền Sài gòn không kiểm duyệt phim 8 mm. Lợi dụng điều này, Đảng và Nhà nước chủ trương sản xuất phim 8 mm đưa vào vùng địch phục vụ đấu tranh chính trị. Thiết bị loại này giá khoảng 300 ngàn USD, nhưng vì chiến tranh không mua được. Tác giả đã giải quyết nhiệm vụ đề ra bằng cách tự chế tạo thiết bị, lập quy trình công nghệ sản xuất, từ những gì sẵn có. Các phim Hội nghị cấp cao nhân dân Đông dương, Chiến thắng Đường 9 Nam Lào, Một ngày Hà Nội do Tác giả trực tiếp chỉ đạo sản xuất thử loạt lớn gửi vào Nam. Trung ương Cục miền Nam nhận được phim, điện ra hoan nghênh, yêu cầu tăng cường sản xuất phục vụ đấu tranh. Bộ phận sản xuất phim 8 mm được thành lập.

Trong lịch sử phát triển điện ảnh Việt Nam đã từng có 3 hệ thống phim: 35, 16 và 8 mm. Hệ phim 8 mm do Tác giả tạo ra không đòi hỏi nhập ngoại thiết bị, chất lượng tốt, đáp ứng mọi yêu cầu. Việc sản xuất phim 8 mm được Nhà nước rất quan tâm. Phó thủ tướng Phan Trọng Tuệ là người xem bộ phim 8 mm đầu tiên ta sản xuất. Ông động viên Tác giả, và ưu tiên: Nếu có khó khăn có thể báo cáo trực tiếp Ông. Dây chuyền sản xuất phim 8 mm như ta làm, chắc Thế giới không đâu có.

Chế tạo máy in hình, in tiếng phim 16 mm. Ban đầu, Xưởng phim Giải phóng chưa làm được tiếng phim, điện ảnh Việt Nam chủ trương chi viện cho điện ảnh miền Nam hệ thống thiết bị làm phim có tiếng. Tác giả được phân công phụ trách chung và trực tiếp thiết kế máy in hình, in tiếng phim hàng loạt. Chất lượng máy tốt. Báo Nhân dân ngày 7/4/1972 đưa tin. Cục Điện ảnh nhận được thư từ miền Nam gửi ra cho biết: Bộ phim có tiếng đầu tiên của Xưởng phim Giải phóng đã được sản xuất trên hệ thống máy này.

Sáng chế cơ cấu tự động chiếu phim liên tục (CPLT) bằng một máy. Trước đây, để CPLT phải sử dụng hai máy chiếu luân phiên. Từ lâu Thế giới đặt vấn đề CPLT bằng một máy. Năm 1972, Tác giả đã chế tạo thành công cơ cấu tự động thay phim dùng CPLT bằng một máy. Máy đã đi thực tế, tham gia Triển lãm Thành tựu Kinh tế-Kỹ thuật Việt Nam. Nhiều báo đã đưa tin. Hơn 10 năm sau (1984) công trình được gửi sang Tổ chức Phát minh Sáng chế Quốc tế (OMPI) và Uỷ ban Phát minh Sáng chế Liên xô xét nghiệm từ kho tư liệu sáng chế của Liên xô, Mỹ, Anh, Pháp, CHLB Đức, CHDC Đức, Thuỵ sỹ, Nhật bản ... với chiều sâu từ 30 đến 50 năm; khẳng định tính mới, tính sáng tạo, khả năng áp dụng và lợi ích kinh tế xã hội của công trình. Công trình được cấp bằng Sáng chế số 10, cấp Quốc tế.

Canh_phim_Chien_thang_duong_9_Nam_Lao_quay_bang_phim_8mmCảnh phim Chiến thằng đường 9 Nam Lào quay bằng phim 8mm

Như vậy là sau hơn 70 năm từ ngày Điện ảnh Thế giới ra đời, lần đầu tiên CPLT bằng một máy thực hiện ở Việt Nam, được Thế giới công nhận.

Phương pháp kẹp giữ chi tiết đặc biệt. Phương pháp kẹp giữ chi tiết bằng bột sắt trên băng từ do Tác giả đề xuất, lúc đó chưa có trong tài liệu kỹ thuật, được áp dụng gia công, kịp phục vụ quay phim chiến trường. Hơn 10 năm sau, khi Cục Sáng chế ra đời, Tác giả đăng ký sáng chế Quốc tế. Tiếc là trước đó (sau Tác giả), ở nước ngoài, đã có người đăng ký.

Giải pháp xử lý bộ phát tiếng phim máy chiếu. Do không nhập được sản phẩm, thiếu phần phát tiếng, máy chiếu phim không xuất xưởng được; bị ứ đọng. Tác giả đã giải quyết vấn đề, không giống Liên xô, Trung quốc và các nước khác, đơn giản, chất lượng tương đương, giá thành bằng khoảng 1/10. Điều quan trọng là giải phóng hàng loạt máy chiếu vào phục vụ, hoàn thành kế hoạch.

Thực tế, Tác giả đã phải sử dụng biện pháp kiểm tra, loại trừ yếu tố tâm lý, để kết quả nghiên cứu được thừa nhận, đưa vào thực tiễn.

Cải tạo máy nổ-phát điện Máy nổ-phát điện Việt Nam làm theo mẫu Liên xô hoạt động không ổn định. Năm 1979 yêu cầu phục vụ chiến tranh biên giới cấp thiết mà máy bị hỏng hàng loạt. Bộ Văn hoá yêu cầu các cơ quan phối hợp giải quyết gấp việc này. Các chuyên gia nhiều lần sang Bộ Cơ khí-Luyện kim, nơi sản xuất máy, nhưng lâu không có kết quả. Tác giả được mời về, đã thiết kế thay phần máy nổ Việt Nam bằng máy nổ Mỹ (có nhiều ở ta khi đó) kịp đưa các đội chiếu phim mặt trận, và mạng lưới vào hoạt động.

Tại Triển lãm Thành tựu Kinh tế-Kỹ thuật Việt Nam công trình được tặng Huy chương Đồng, UB KHKT Nhà nước cấp giấy chứng nhận Quyền Tác giả

Sản xuất đèn hồ quang chiếu bóng. Trước kia, Đèn hồ quang chiếu bóng phải nhập ngoại rất bị động. Nhiều lúc nhiều rạp phải đóng cửa vì không có đèn. Quy trình sản xuất hồ quang phức tạp; xử dụng nhiều loại thiết bị, nguyên liệu. Có nguyên liệu, Tác giả phải phối hợp với Địa chất, Đại học Bách khoa, Tổng hợp, Viện Luyện kim mầu ... khai thác chế biến từ quặng Việt Nam. Tác giả đã làm hàng nghìn thí nghiệm, hàng trăm mẫu thử để hồ quang có chất lượng tốt. Bằng sự phối hợp với các cơ sở, Tác giả đã tạo ra giây truyền công nghệ, sản xuất hàng vạn hồ quang đáp ứng mọi yêu cầu của xã hội, không yêu cầu Nhà nước đầu tư nhà xưởng, trang bị.
Tại Triển lãm Thành tựu Kinh tế-Kỹ thuật Việt Nam công trình được tặng Huy chương Bạc, UB KHKT Nhà nước cấp giấy chứng nhận Quyền Tác giả.

Voi_ban_be_va_dong_nghiep_trong_chuyen_di_tham_nuoc_ngoai

Với bạn bè và đồng nghiệp trong chuyến đi thăm nước ngoài

Thiết kế chế tạo máy chiếu phim mẫu. Máy chiếu phim Việt Nam sản xuất theo mẫu Liên xô từ năm 1950. Với mục đích nâng cao chất lượng sản phẩm, Tác giả chủ trì phối hợp Viện Kỹ thuật điện ảnh với Xí nghiệp Thiết bị điện ảnh, Công ty vật tư đổi mới mặt hàng này ngang tầm với các máy cùng thế hệ năm 1990. Công trình đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật đề ra.

Sáng chế phương pháp ghi phụ đề phim nhựa. Để làm phụ đề giới thiệu phim ra nước ngoài, ngành điện ảnh đã chi nhiều tiền nhập thiết bị, cử người đi học, mời chuyên gia, nhưng công việc không hoàn thành kịp thời hạn. Tác giả đề xuất phương pháp làm phụ đề phim kiểu lộ sáng; đơn giản, chất lượng tốt, không cần nhập thiết bị, kịp làm phim đi dự liên hoan Quốc tế và đáp ứng mọi yêu cầu xuất khẩu phim của ngành nhiều năm liền. Công trình được cấp bằng độc quyền Giải pháp Hữu ích.

Các công trình Sáng chế cơ cấu chuyển phim máy chiếu theo nguyên lý mới Sáng chế cơ cấu tách phim tự động là những vấn đề được Kỹ thuật Điện ảnh Thế giới đặt ra từ lâu, với mục đích nâng cao tuổi thọ phim, chất lượng tiếng phim, hiệu quả xử dụng thiết bị. Tác giả đề xuất, đăng ký hai công trình này, đều được cấp bằng Sáng chế cấp Quốc tế.

Nghiên cứu thử nghiệm làm kỹ xảo trên phim nhựa. Từ lâu ngành điện ảnh mong muốn xây dựng bộ phận làm kỹ xảo phim, nhưng không thực hiện được vì cần nhiều loại thiết bị đắt tiền. Tác giả thử nghiệm làm việc này bằng trang thiết bị sẵn có và tự chế tạo. Một số phương pháp kỹ xảo được nghiên cứu và thể hiện cụ thể. Công trình được Hội đồng KHKT đánh giá xuất sắc. Bộ Văn hoá-Thông tin ra Quyết định khen thưởng.

Ghi thuyết minh và lồng tiếng dân tộc vào phim. Đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa ít người biết tiếng kinh. Các đội chiếu bóng địa phương ít người biết tiếng dân tộc. Chiếu phim không có thuyết minh, kết quả hạn chế. Tác giả đã phối hợp với Sở Văn hoá-Thông tin Yên Bái, Vụ Chính sách - Uỷ ban Dân tộc và Miền núi, ghi thuyết minh và lồng tiếng dân tộc vào phim. Phim truyện Người hùng đá đỏ được lồng tiếng Khơ me trình chiếu trước khi phim Oshin lồng tiếng Việt phát trên truyền hình.

Trưởng ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương hoan nghênh khuyến khích; Chủ tịch, phó Chủ tịch Hội đồng Dân tộc Quốc Hội, Y Ngông Niêk Đam, Cư Hoa Vần cùng các đại biểu kỳ họp thứ 5 khoá IX đã đến Viện Kỹ thuật Điện ảnh nghe báo cáo, xem phim; hoan nghênh, yêu cầu triển khai nhanh phục vụ đồng bào các dân tộc. Cục Văn hoá-Thông tin cơ sở đã đặt hàng ngàn băng phim ghi thuyết minh và lồng tiếng các dân tộc: Tày, Mông, Chăm, Khơ me chiếu ở các địa phương.

Thử nghiệm mô hình quản lý mới. Từ thực tế nhận thấy, các đề tài khoa học kỹ thuật thực hiện bằng ngân sách Nhà nước kém hiệu quả. Nhiều công trình được đánh giá xuất sắc nhưng lại để đấy. Chủ trương đổi mới của Đảng và Nhà nước có tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ, mở cho khoa học kỹ thuật những khả năng to lớn để phát triển. Tác giả đã vận động cán bộ công nhân viên chức nghiên cứu, học tập các chủ trương chính sách mới, cùng thực hiện công trình “Thử nghiệm mô hình quản lý theo cơ chế mới, tiến hành các hoạt động khoa học kỹ thuật không dựa vào ngân sách Nhà nước”. Công trình có hiệu quả, được nhiều chuyên gia cấp cao các Bộ, Ban, Ngành, các cơ quan của Đảng và Nhà nước đánh giá cao. Sau khi có Phiếu báo của Văn phòng Chính phủ lấy ý kiến các cơ quan, các Bộ quản lý Nhà nước, các Tổ Chính trị - Xã hội, Xã hội cấp Trung ương có văn bản chính thức đồng tình ủng hộ.


BBT Tạp chí TGĐA giới thiệu