Gặp chủ rạp hát Đại Đồng – Con trai nhà kinh doanh rạp chiếu bóng đầu tiên ở Việt Nam

Tự hào về cha và thương hiệu rạp chiếu bóng Đại Đồng

(TGĐA) - Thường các ông chủ rạp phải tự tìm nguồn phim, bằng cách nhanh chóng đặt cọc trước từ 2,3 tháng nếu là phim hay của Mỹ, Hồng Kông, Đài Loan…Sau đó lập tức ký hợp đồng độc quyền từ 2 đến 3 năm, với tỷ lệ chia dều theo doanh thu cho cả ba đơn vị : Nhà nước, Hãng phim và chủ rạp.


Qua câu chuyện kể thân mật từ vợ chồng anh Nguyễn Tiến, giáo viên toán cấp 3 trường Tahleman và chị Minh Đức, bác sĩ-nguyên cán bộ y tế trường Cao đẳng SKĐA TP.HCM vừa nghỉ hưu, đã cuốn hút tôi tìm đến nhân vật thứ ba. Ông chính là Nguyễn Thịnh, người anh trai thứ hai của anh Tiến. Là người con duy nhất trong gia đình họ Nguyễn đã có gần 60 năm thâm niên theo nghề kinh doanh rạp chiếu bóng ở Việt Nam.

Ông Nguyễn Thịnh trên chiếc ô tô riêng

Quá bất ngờ và xúc động, khi tôi gặp ông Thịnh (76 tuổi ) đi chiếc xe máy Charly cũ kỹ, bong tróc, rỉ sét nhiều bộ phận. Vậy mà ông thật phúc hậu, chân thành cứ say mê kể vanh vách về người cha cùng quá trình hình thành và xây dựng rạp chiếu bóng đầu tiên ở Việt Nam tại Hà Nội và liên tiếp nhiều rạp về sau tại Sài Gòn.

Cha ông là Nguyễn Thiên, sinh năm 1915 tại Hà Nội, sau khi lấy vợ là bà Đỗ Thị Sâm, cả hai cùng đam mê kinh doanh dày dép. Hồi đó vào năm 1940, Hà Nội chưa hề có rạp hát, sẵn có chút máu văn nghệ, thế là cả hai cụ nhất trí chuyển qua nghề kinh doanh chiếu bóng mà công việc đầu tiên là phải xây rạp. Cùng lúc cả hai rạp hát cải lương đầu tiên ra đời là Thiên Xuân hý viện ở phố Bóp Kèn- Hà Đông và ở phố Ngã Tư Sở Hà Nội. Năm 1951, ông chuyển qua xây dựng rạp chiếu bóng và quyết định lấy tên chung là Đại Đồng. Sau đó liên tiếp cứ một, hai năm, ông lại cho xây dựng các rạp Đại Đồng ở phố Ngọc Hà- Hà Nội ( năm 1952 ) và Đại Đồng- Hà Nội ở phố Hàng Cót ( năm 1953 ). Ong tiếp tục lên dự án lớn, sẽ xây dựng ở mỗi tỉnh thành đều có một rạp Đại Đồng, với ý nghĩa đây là việc làm lớn, mang tính chất xã hội như một thế giới cộng đồng cho người dân đến giải trí.

Năm 1954, khi gia đình quyết định di cư vào Sài Gòn, ông đã kịp hiến toàn bộ 4 rạp hát và chiếu bóng cho Nhà nước. Sau khi vào Sài Gòn một năm, ông vẫn đam mê nuôi ý tưởng kinh doanh rạp chiếu bóng và cho tới cuối năm 1955, rạp Đại Đồng trên đường Cao Thắng (quận 3 ) được khai trương. Đến năm 1967, ông cho xây tiếp rạp Đại Đồng Gia Định ở đường Nơ trang Long cùng một số công trình như : Hồ bơi, khu giải trí với hơn 4000m2. Thời gian này tổng nha cảnh sát Sài Gòn nghi vấn việc đặt tên Đại Đồng có liên quan đến vấn đề kinh tài cho cộng sản, nên đã gọi ông lên chất vấn, điều tra nhiều lần.

Sau một năm bị nghi ngờ, đến năm 1959, ông nhanh chóng xây thêm một rạp ở Gò Vấp và quyết định từ đây đổi tên khác là rạp Đông Nhì ( sau này là rạp 30/ 4 ) trên đường Lê Quang Định. Năm 1962, ông cho xây tiếp rạp Hùng Vương có cư xá liên thông liền kề với diện tích hơn 3000m2. Năm 1964, ông xây thêm rạp Quốc Thái, trên đường 30/ 2. Năm 1966 mở rộng thêm địa bàn, ông cho xây tiếp rạp Duy Tân, trên đường Duy Tân- Vũng Tàu. Năm 1967, xây tiếp rạp Thành Thái ở Bà Rịa. Cùng trong năm 1968, ông cho xây hai rạp Thăng Long ở đường Cống Quỳnh Sài Gòn và rạp Bình Minh ở tỉnh Bình Dương. Mô hình mỗi rạp được thiết kế gồm một chung cư hai hoặc ba tầng, có nhiều phòng ở cho con cháu sau này. Chỉ có một rạp chiếu gồm 1500 ghế với diện tích từ 1000 đến 2000m2. Trong thời gian này ở Sài Gòn xuất hiện vài chủ tư nhân, tham gia xây dựng và kinh đoanh rạp hát. Nhưng không may, cũng trong năm 1968 người cha thân yêu qua đời. Trước đó, ông đã kịp phân chia từng rạp cho các con độc lập quản lý, tiếp tục hành nghề kinh doanh chiếu bóng của gia đình.

Rạp Đại Đồng - Hà Nội

Phương thức hoạt động, bài bản- chuyên nghiệp

Thường các ông chủ rạp phải tự tìm nguồn phim, bằng cách nhanh chóng đặt cọc trước từ 2,3 tháng nếu là phim hay của Mỹ, Hồng Kông, Đài Loan…Sau đó lập tức ký hợp đồng độc quyền từ 2 đến 3 năm, với tỷ lệ chia dều theo doanh thu cho cả ba đơn vị : Nhà nước, Hãng phim và chủ rạp. Việc đóng thuế cho Nhà nước được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ. Ngoài các thuế :Môn bài, Thổ trạch và Nóc gia, thì thuế Hí cuộc rất nặng (chiếm 1/3 số tiền doanh thu ). Để tránh tình trạng in vé giả, hay mất bản quyền phim, cả 3 đơn vị luôn tự có những hình thức thiết thực, hiệu quả để kiểm tra lẫn nhau. Nếu vi phạm, sẽ phải chịu phạt nặng tới mức nhân gấp 20,30 lần giá vé bán ra. Mỗi đầu phim được phát hành cùng thời điểm trên 6 rạp. 6 tháng sau sẽ được chiếu lại lần thứ hai. Chiếu thường trực, trung bình 8 xuất/ ngày, sau một tuần sẽ được đổi phim. Với một vé xem, có giá 5 ngàn đồng (tương đương với tô phở ). Thường mỗi ngày bán từ ba đến bốn ngàn vé, người xem luôn kín rạp . Đặc biệt vấn đề quảng cáo rất được quan tâm. Đây là phần mà chủ các rạp hát phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về mọi hình thức thông tin , quảng bá cho đạt hiệu quả (như : xin giấy phép, vẽ panô, băng rôn, in tờ rơi, thông tin báo, đài… ). Nhất là khi có phim bom tấn, một năm chủ rạp còn thuê hãng hàng không tư nhân một lần, cho trực thăng bay qua những nơi đông dân để thả tờ rơi trong khoảng 15 phút. Theo luật định, mỗi bộ phim được phát hành trong 5 năm. Khi hết hạn, hãng phim đó buộc phải đốt huỷ để tái sản xuất phim mới. Chính vì vậy các chủ rạp khi mướn phim luôn phải biết gữi chữ tín hàng đầu.

Về cơ sở vật chất để xây rạp. Ngay từ những năm 1953, 1954 ở Hà Nội, do Việt Nam chưa sản xuất được chân ghế chuyên ngành, nên gia đình ông Thiên phải nhập từ Pháp về ( chân ghế bằng gang). Luôn phải có hai máy chiếu 35 ly mua của Anh, Pháp, Mỹ. Đến năm 1960 mới có màn ảnh rộng và phim màu.

Rạp Quốc Thái

Chuyển biến lịch sử và sự cống hiến tài sản to lớn cho nước nhà

Sáng sớm ngày 30/ 4, thấy nhiều người chạy nhốn nháo ngoài đường, cùng những âm thanh của súng đạn, máy bay, hàng loạt xe hồng thập tự chở nhiều người bị thương, chúng tôi hiểu ngay đã có cuộc chiến lớn. Đúng 8giờ 30 phút, chúng tôi ra lệnh đóng cửa toàn bộ rạp hát của gia đình. Sau 10 ngày, từ chủ rạp đến nhân viên đều phải đi học lớp cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh tại rạp hát Vĩnh Lợi- Sài Gòn. Sau khi học,các chủ rạp phải làm giấy cam kết hợp doanh với Nhà nước, không được làm tư nhân. Như vậy, hơn 10 rạp của gia đình họ Nguyễn (nhiều nhất so với các hãng khác ở Sài Gòn ) rất nghiêm túc thực hiện chủ trương này. Tất nhiên mỗi chủ rạp đều được Nhà nước giao quyền cùng quản lý rạp với một chức danh phó rạp.Riêng có chủ rạp Quốc tế và Thủ đô, hai rạp lớn đã không ký giấy phải đi học tập cải tạo một thời gian. Sau hơn 5 năm hợp tác với Nhà nước, do tình hình phim chiếu quá ít, nên lượng khách mỗi ngày đến rạp ngày càng giảm. Hầu như các anh em gia đình ông Thịnh đều đi định cư ở nước ngoài. Họ lại tiếp tục hiến các rạp hát của mình cho Nhà nước. Riêng còn ông Thịnh-người chủ rạp Đại Đồng Thăng Long duy nhất đã ở lại tiếp tục làm việc cho tới năm 2002 thì nghỉ hưu.

Rạp Đại Đồng - TP. Hồ Chí Minh

Gần 34 năm nhìn lại-một quá khứ tự hào, cùng những dấu lặng mong được sẻ chia.

Nhìn lại mốc son của gia đình, tất yếu cả 16 người con ông Tiến sẽ rất tự hào vì cha họ là người đầu tiên ở Việt Nam nuôi ý tưởng và thực hiện thành công mô hình kinh doanh chiếu bóng. Như vậy kể cả 4 rạp ở Hà Nội, tính đến ngày 30/4, gia đình ông Thịnh đã xây dựng 15 rạp hát, hồ bơi và khu giải trí ở Sài Gòn, Vũng Tàu và Đồng Nai. Tuy nhiên, sau này nhiều rạp do Nhà nước quản lý đã không còn chức năng chiếu bóng, nhưng mỗi lần hai anh em Thịnh- Tiến ( ở lại Việt Nam ) nhìn thấy, vẫn coi như những núm ruột của gia đình. Thế nhưng những vẻ phúc hậu, chân thành bên ngoài của ông đã không thể dấu đi những khoảng lặng đau đáu ẩn chứa bên trong ở con người này. Đó là một chính sách đãi ngộ công bằng về nơi ở cố định cho họ. Hiện, ngoài hai vợ chồng ông, thì cả 9 người con cùng gia đình riêng đều ở tại rạp- Nhà của họ đấy, nhưng chẳng thể làm giấy chủ quyền riêng. Trong sâu thẩm, ông lo tới ngày đi theo ông bà, số phận các con ông sẽ thế nào, hoặc cho dù đó là một nơi trang nghiêm để hàng ngày thờ cúng ông bà, cha mẹ ?

Minh Đức