(TGĐA) - Một số người viết nhạc phim chuyên nghiệp luôn coi nhạc phim là lĩnh vực chuyển tải những ý đồ sáng tạo của mình đến đông đảo công chúng nên rất trau chuốt trong sáng tác và gần đây đã xuất hiện một số nhạc phim có dấu ấn trong cộng đồng. Nhạc sỹ Đỗ Hồng Quân là một trong những số đó. Anh cũng là một trong những người làm nhạc phim truyện điện ảnh dành được nhiều giải nhất với các tác phẩm được biết đến như Thằng Bờm, Đêm hội Long Trì, Cỏ lau, Những người thợ xẻ, Hà Nội 12 ngày đêm, Hoa ban đỏ, Ngọn đèn trong mơ, Dịch cười, Rừng đen, Hà Nội mùa đông 46, Trở về, Sống trong sợ hãi...
Nhạc sĩ Đỗ Hồng Quân
Anh có thể cho biết tầm quan trọng của âm nhạc trong phim?
Một trong những tính chất cơ bản của nhạc phim là khí nhạc (tức là nhạc không lời). Hay nói cách khác, ngôn ngữ nhạc phim chính là ngôn ngữ của khí nhạc. Chúng ta phải hiểu khí nhạc là sự biểu hiện bằng âm thanh của dàn nhạc nên đòi hỏi phải có ngôn ngữ riêng. Tính chất minh họa trong nhạc phim là có nhưng đặc tính của âm nhạc trong phim chính là sự biểu hiện. Người nhạc sỹ viết nhạc cho phim cũng giống như một viên phi công phải có tay lái giỏi. Người viết nhạc không phải minh họa lại hình ảnh mà phải là một nhà sáng tạo, có đủ kỹ năng về chuyên môn và có đủ độ tư duy, trong đó nhiệt độ sáng tạo là quan trọng.
Như vậy không phải nhạc sỹ nào cũng viết được nhạc phim?
Đúng vậy. Nhạc phim là một lĩnh vực mà chỉ có số ít nhạc sỹ và những người thực sự có sở trường và khả năng mới làm được hiệu quả. Ở đây, người viết nhạc phim thực thụ ngoài khả năng làm chủ lĩnh vực khí nhạc thì còn có năng lực sáng tác thanh nhạc. Chúng ta đã có một lớp nhạc sỹ thế hệ trước thành danh ở lĩnh vực nhạc phim phải kể đến như nhạc sỹ Nguyễn Đình Phúc, Hoàng Vân, Trần Quý và sau này là Trọng Bằng, Hồng Đăng, Phạm Minh Tuấn, Trọng Đài… Kế đến là lớp thế hệ kế cận như Bảo Phúc, Quốc Trung, Xuân Phương, Ngọc Châu, Huy Tuấn… đã góp phần cho sự thành công của nhiều thể loại phim.
Thời gian gần đây việc sáng tác nhạc phim đã có những biểu hiện đáng lo ngại về chất lượng nghệ thuật ở một số thể loại phim, trong đó có cả phim truyện nhựa. Vậy theo anh, lỗi ở đây thuộc về ai?
Nhớ lại quãng thời gian vàng son những năm 60, Xưởng phim truyện Việt Nam khi đó đã có hẳn một dàn nhạc giao hưởng, có chỉ huy dàn nhạc, có phòng thu riêng. Nếu có bức tranh so sánh sẽ thấy phim của Việt Nam trong những bước đi đầu tiên là phim đen trắng thì đã có một dàn nhạc giao hưởng kèm theo. Nhưng đến khi phim của chúng ta có màu và có sự hỗ trợ của công nghệ với nhiều kỹ thuật hiện đại thì âm nhạc trong phim lại sử dụng âm nhạc điện tử. Đây là một mâu thuẫn tréo ngoe bởi với những phim hoạt hình của Walt Disney từ những thập kỷ 60 đã có dàn nhạc giao hưởng chơi một cách bài bản và đến bây giờ truyền thống đó trên thế giới vẫn được duy trì.
Tôi cho rằng lỗi ở đây trước hết thuộc về người đạo diễn. Nếu anh không nghiêm khắc, không tinh thông thì chắc chắn sẽ đặt âm nhạc vào vị trí rất cảm tính. Chính vì thế, đạo diễn sẽ chọn nhạc sỹ không đúng với khả năng và khiến cho sản phẩm kém về chất lượng là đương nhiên. Thứ hai, các nhà làm phim hay đổ lỗi cho kinh phí thấp nên không thể nào thực hiện việc lựa chọn âm nhạc. Bởi vậy có những phim phần nhạc không cần tổng phổ mà người viết chỉ nhìn vào hình ảnh trong phim rồi ứng tác tại chỗ trên đàn điện tử.
Cảnh trong phim Mùi cỏ cháy
Với những thành công ở mảng nhạc phim trong phim truyện điện ảnh, được biết anh còn viết cho cả phim hoạt hình?
Tôi nghĩ viết nhạc phim hoạt hình khó vì dễ rơi vào khái niệm “nhại theo” nhân vật.
Chúng ta có thể thấy những bộ phim hoạt hình của Walt Disney luôn mang lại cho khán giả ấn tượng đặc biệt về âm nhạc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa âm nhạc và hình ảnh đã tạo nên thành công cho những thước phim hoạt hình kinh điển. Nhìn vào đó để thấy viết nhạc cho phim hoạt hình khó đến mức nào. Tuy nhiên, ở Việt Nam khái niệm âm nhạc trong phim hoạt hình chưa được đề cao. Điều này đi ngược so với chuẩn thế giới, đáng lẽ âm nhạc trong phim hoạt hình là phần rất quan trọng thì chúng ta lại dành cho nó một phần kinh phí rất nhỏ nên cũng hạn chế việc mời gọi nhạc sĩ. Tôi cho rằng đây là một quan niệm hoàn toàn không đúng. Bởi đối với phim hoạt hình ngoài việc đầu tư về mặt hình ảnh, kỹ thuật thì phải chú trọng nâng cao đầu tư cho âm nhạc, biến nó trở thành một kênh âm thanh hữu hiệu, hỗ trợ hiệu quả cho hình ảnh.
Tuy nhiên, tôi cho rằng viết nhạc cho phim truyện điện ảnh vẫn là khó nhất vì đòi hỏi tư duy tổng thể, huy động sự tập trung về mặt âm thanh. Ở đây có sự khống chế về mặt thời gian, không gian, về tâm lý của nhân vật nên cảm xúc được ép lại khi đạo diễn viết kịch bản phân cảnh. Từ đó, buộc người nhạc sĩ phải có cảm xúc đồng điệu.
Cá nhân anh cảm thấy hứng thú khi viết nhạc cho phim truyện điện ảnh hay phim hoạt hình?
Với tôi, cả hai đều thú vị. Tôi cho rằng nếu có điều kiện làm việc với các đạo diễn thì chất lượng kịch bản chính là việc khơi dậy cảm hứng sáng tạo của người nhạc sĩ. Tôi luôn xác định tư thế sẵn sàng của một người làm công tác sáng tạo chứ ít khi đặt mình trong vai trò của người được đặt hàng. Đôi khi, một số đạo diễn chỉ nghĩ nhạc sĩ này được việc thì họ đặt hàng mà không cần quan tâm chất lượng sản phẩm sẽ ra sao.
Làm nhạc phim lâu năm, vả lại công việc của anh cũng rất bận rộn với cương vị của Chủ tịch Hội nhạc sĩ Việt Nam, đâu là điều kiện để anh nhận lời làm nhạc cho một bộ phim?
Xét về cảm tính thì đó là những mối quan hệ nghề nghiệp trên cơ sở đôi bên có sự tin tưởng lẫn nhau. Từ trước đến nay, tôi viết nhạc nhiều cho phim truyện điện ảnh, còn những phim truyền hình dài tập thì ít viết. Tôi thường cộng tác với các đạo diễn Hải Ninh, Bạch Diệp, Đặng Nhật Minh, Đỗ Minh Tuấn, Lê Đức Tiến, Vương Đức và gần đây nhất là với Hữu Mười trong phim Mùi cỏ cháy. Tôi nhận thấy đó thực sự là môi trường có thể đồng sáng tạo. Còn sang một lĩnh vực khác, đôi khi lại biến thành dịch vụ. Tôi cũng tôn trọng các nhạc sĩ đồng sáng tạo trong các phim truyền hình dài tập, nhưng đôi khi tôi cảm thấy ở đó vẫn còn nhiều tính chất gia công.
Cảnh trong phim Mùi cỏ cháy
Bộ phim nào được anh dồn nén nhiều sức sáng tạo và sự tưởng tượng phong phú nhất từ trước đến nay?
Mỗi phim đều có những trường đoạn mà tôi rất thích. Nhưng có lẽ với Mùi cỏ cháy cảm xúc của tôi về mặt âm nhạc tương đối dồn nén, đạt đến độ chín, chững chạc hơn cả. Ngoài ra, mảng âm nhạc dân gian trong phim Thằng Bờm, Trê Cóc cũng là những bản nhạc khiến tôi rất hứng thú, nghe là nhận ra ngay, không bị nhạt nhòa, không bị lai căng.
Thế mạnh của nhạc phim là ở tính lan tỏa, làm sao để “khiến mọi người rơi nước mắt bằng âm nhạc” mới là khó. Điều này có thể thấy ở hình ảnh của một cô gái đứng tiễn anh bộ đội tân binh trong Mùi cỏ cháy đã được âm nhạc nâng lên, hoặc trường đoạn các chiến sĩ lội qua sông Thạch Hãn tưởng chẳng có gì vì hình ảnh đôi chỗ có phần hơi ngây ngô nhưng chính âm nhạc đã thổi hồn vào hình ảnh khiến người xem cảm nhận sâu sắc về sự thiêng liêng, cao cả của những người lính đã ngã xuống.
Anh nói vai trò của âm nhạc là sự đồng sáng tạo. Vậy có lẽ khó tránh khỏi những tranh cãi xảy ra trong quá trình thực hiện nhạc phim với đạo diễn?
Chuyện xảy ra tranh cãi trong quá trình thực hiện vẫn diễn ra thường xuyên, có thể ngay trực tiếp trong phòng thu. Tôi thực sự kính nể hai vị đạo diễn là Đỗ Minh Tuấn và Đặng Nhật Minh trong việc tranh luận đến cùng sao cho tác phẩm hoàn chỉnh một cách tốt nhất. Tôi cho rằng hai đạo diễn này là những người kỹ tính về mặt âm nhạc. Mặc dù họ rất tôn trọng nhạc sĩ nhưng họ có chính kiến riêng và đôi khi thuyết phục được nhạc sĩ theo những yêu cầu của họ. Ngoài ra còn có đạo diễn Vương Đức cũng là một người có đôi tai âm nhạc tinh tế…
Sáng tác nhạc phim đã trở thành một mắt xích quan trọng cấu thành bộ phim. Tuy nhiên có tác phẩm nhạc phim được đông đảo công chúng yêu thích đôi khi cũng nhờ cái duyên. Anh có nghĩ vậy không?
Có hai khái niệm là nhạc phim hay bài hát trong phim. Câu hỏi này có vẻ nghiêng về bài hát trong phim vì có nhiều tác phẩm nhạc phim công chúng chẳng nhớ câu nào. Câu hỏi này có vẻ liên quan đến những sản phẩm điện ảnh mà ở đó được gắn với một bài hát thì đúng hơn. Ví dụ như các ca khúc trong phim còn sống mãi như Em còn nhớ hay em đã quên, Mùi hoa sữa… và sau này là những bài hát trong các seri phim truyền hình dài tập. Đôi khi họ không nhớ tên và nội dung phim mà chỉ nhớ bài hát. Đó là bởi sự tác động về mặt tâm lý vì bài hát đó được hát đi hát lại nhiều lần trong một tập phim nên chỉ cần đạt yếu tố có nội dung hợp với phim, có ca từ, giai điệu dễ nghe, dễ thuộc lập tức sẽ trở thành một sản phẩm gắn với bộ phim đó. Những ca khúc này có thể tách ra đứng độc lập, tuy nhiên đó là một đặc sản khác không phải là nhạc phim.
Anh có thể cho biết đánh giá tổng quan về âm nhạc trong phim Việt Nam hiện nay khác trước như thế nào?
Tôi cho là âm nhạc Việt Nam hiện nay phong phú hơn, bắt tai hơn, đáp ứng nhiều trạng thái hơn nhưng về nội lực mà nói là yếu vì tính sáng tạo ít hơn, có nhiều yếu tố ngoại lai, đánh mất đi bản sắc, ngôn ngữ, giọng nói của một nhân vật đồng hành. Bên cạnh đó, phương thức thể hiện cũng là mối lo. Toàn bộ phần âm nhạc trong các phim, đặc biệt là phim truyện điện ảnh gần như đều được thể hiện bằng âm nhạc điện tử. Đây là cái dở, cần khắc phục hiện trạng này. Việc đưa những nét nhạc dân tộc dân gian vào phim cũng phải có sự chọn lọc, đừng biến nó trở thành yếu tố mang tính minh họa, hoặc nhại lại mà phải có hồn. Người nghe đòi hỏi sự sáng tạo trong từng thành phần, trong đó có âm nhạc, đòi hỏi tay nghề của các nhạc sĩ. Hiện nay đang có sự thiếu hụt thế hệ các nhạc sĩ được đào tạo bài bản để viết nhạc phim.
Ở Việt Nam, hiện chưa có một nhạc sỹ nào được đào tạo bài bản về cách viết nhạc phim. Theo anh, chúng ta nên hướng tới sự chuyên môn hóa cho những người làm nhạc phim bắt đầu từ đâu?
Trước hết, chúng ta có thể mở những lớp tập huấn trên nền tảng của những học viên phải là những nhạc sĩ về khí nhạc, từ đó mở những lớp về chuyên đề nhạc phim và đối tượng tham dự có thể là những nhạc sĩ trẻ được đào tạo một cách bài bản trong các Học viện âm nhạc, nhà trường chuyên ngành về sáng tác.
Kim Anh