(TGĐA) - Tôi xem lại bộ phim này vì nhân dịp 30 tháng Tư năm nay, NXB Trẻ phát hành cuốn Những mảnh đời được ban tặng (The Life We Were Given) của nữ tác giả Dana Sachs. Tìm đọc cuốn sách này bởi tôi nhớ, vào tháng Tư năm 75, trên báo Văn Nghệ, nhà thơ Chế Lan Viên viết bài thơ dài, nhan đề Ford, tên mẹ mìn của thế kỷ Hai mươi. Dạo đó, người ta đồn rằng, Mỹ bắt trẻ con Việt Nam đi để nuôi dưỡng và xây dựng đội quân tương lai sau này về đánh lại nước ta. Cuốn sách là thiên phóng sự đầy cuốn hút về số phận của khoảng 3000 trẻ em Việt Nam bị đưa về Mỹ và một số nước Tây Âu trong Chiến dịch Không vận (Operation Babylift) diễn ra vào những ngày cuối tháng Tư năm 1975. Dana Sachs đã bỏ ra nhiều năm để hoàn thành cuốn sách nhỏ. Trong đó, bà nhắc tới hai nhân vật chính trong bộ phim tài liệu Người con gái Đà nẵng (Daughter from Danang) là bà mẹ Mai Thị Kim và cô con gái lai Việt-Mỹ Mai Thị Hiệp (tên tiếng Anh là Heidi Bub). Bộ phim này do hai đạo diễn Mỹ là Gail Dolgin và Vicente Franco thực hiện từ tháng Ba năm 1997. Tại Liên hoan phim Sundance năm 2002, Daughter from Danang đã giành giải thưởng của Ban Giám khảo (Grand Jury). Và năm 2003, bộ phim đã lọt vào vòng cuối trong danh sách đề cử của giải Oscar. Năm 2011, bộ phim đã được chiếu tại Viện Gueth Hà Nội.

Heidi Mai Thị Hiệp và mẹ
Để bạn đọc tiện theo dõi, tôi xin tóm tắt câu chuyện. Mở đầu bộ phim là những cảnh người dân Đà Nẵng hỗn loạn di tản trong lời kể của bà Kim. Bà buộc phải gửi bé Hiệp đi Mỹ vì bà nghe đồn rằng, cộng sản vào Đà Nẵng sẽ bắt hết các con lai và đốt cháy. Bé Hiệp năm đó mới lên 7 tuổi. Cô bé kể, lúc đó, cô không hiểu tại sao mẹ lại nỡ dứt bỏ một đứa con của mình? Hoàn cảnh bà Kim hồi đó, như lời bà kể, chồng bỏ lên núi theo cách mạng. Bà bị chính quyền gây khó. Nặng nề hơn, một mình bà nuôi 3 con nhỏ. Bà phải đi làm công việc tạp vụ trong doanh trại lính Mỹ. “Một công việc mà bị người ta coi khinh như làm điếm”. Bà nói. Tại đó, có một lính Mỹ ngỏ lời yêu bà. Khi đứa con trong bụng vừa 4 tháng, người lính Mỹ về nước.
Khi đến Mỹ, bé Hiệp được một người phụ nữ độc thân ở Nam California xin làm con nuôi. Sau đó hai mẹ con chuyển về bang Tennessee, một nơi hầu như không có người Việt sinh sống. Bé Hiệp được đi học, nuôi dưỡng đầy đủ, nhưng vẫn không cảm nhận được tình mẹ con. Bà mẹ nuôi là trưởng khoa một trường đại học, tính rất nghiêm khắc. Năm Hiệp 20 tuổi, khi đang là sinh viên, trong một lần đi chơi về muộn, Hiệp bị mẹ nuôi đuổi ra khỏi nhà. Cô sống nhờ bè bạn. Cô cảm thấy mình bất hạnh. Hai lần bị bỏ rơi. Cô đến các tổ chức con nuôi tìm nguồn cội của mình.

Poster phim Người con gái Đã Nẵng
Còn bà Kim, bao năm trời, với một lá thư nhờ viết bằng tiếng Anh trên tay, bà đi khắp Đà Nẵng, gặp bất cứ ông Tây nào cũng hỏi nhờ tìm con gái. May một lần, bà gặp một khách du lịch người Anh, làm ở Chữ thập đỏ. Ông hứa giúp bà.
Cô Hiệp (giờ là Heidi) đã có chồng và hai con. Cuộc sống gia đình cô cũng bình thường. Chồng cô là lính hải quân. Nhận được tin mẹ đẻ, cô quyết định về Việt Nam. Cùng đi với cô có nhà báo Trần Tương Như, là người Việt Nam đầu tiên mà cô gặp. Cô Tương Như là một người phụ nữ đứng tuổi. Trên máy bay, cô dạy Hiệp nói những câu tiếng Việt như “Con thương má”…
Những cuộc gặp của những ngày đầu diễn ra khá cảm động. Song bên trong đã dần bộc lộ những xung đột. Bà Kim coi Hiệp như còn nhỏ, đi đâu cũng đắt tay. Bà muốn ngủ cùng con để suốt đêm hai mẹ con tâm sự. Anh chị em Hiệp cũng hy vọng cô em Mỹ lai giúp đỡ về vật chất. Chị Hiền, em út nghèo nhất trong gia đình nói: “Tuy tôi không có của, nhưng tôi có công. Thỉnh thoảng qua nhà bố mẹ, giúp nấu cơm, giặt giũ…’’. Cô Hiệp cũng hơi bất ngờ khi về lại quê hương thấy mọi người còn nghèo khó. Những khác biệt về lối sống khiến cô muốn rút ngắn thời gian thăm mẹ. Cao trào của bộ phim diễn ra vào buổi họp mặt gia đình trước ngày Hiệp ra đi. Người anh trai tên Tình đặt thẳng vấn đề: “Mẹ đã có công sinh ra em. Giờ em phải có trách nhiệm báo hiếu cho mẹ. Em có thể bảo lãnh cho mẹ qua Mỹ sống những năm tháng cuối đời. Ước nguyện của mẹ là như vậy. Em có thể làm được hay không, xin nói thẳng ra!’’ Hiệp bị sốc. Cô nói, mình chỉ về thăm mẹ, chưa chuẩn bị cho việc này. Người anh nói tiếp, nếu em chưa làm được, hàng tháng có thể gửi tiền về giúp mẹ được không? Đến đây, cô Hiệp ôm mặt khóc. Cô chạy ra ngoài hiên. Anh trai và anh rể ra dỗ cô vào. Cô vẫn đứng đó khóc. Bà mẹ chạy ra muốn an ủi. Cô càng bỏ chạy xa hơn: “Mẹ đừng động vào con! Xin để con được yên!’’.
Bộ phim tài liệu này có độ dài 80 phút. Đặc biệt là, các tác giả không sử dụng một lời bình nào. Ngoài những thước phim miêu tả hiện tại và quá khứ, các nhà làm phim để cho các nhân vật nói về quan điểm cuộc sống của mình Các vấn đề, các câu chuyện lớn nhỏ được đối diện, va đập với nhau đầy kịch tính. Bộ phim được xây dựng theo cấu trúc ba hồi rất rõ. Hồi thứ nhất, các tác giả thể hiện tình huống hai mẹ con phải xa nhau nhưng vẫn mong muốn tìm lại. Trong hồi này, chủ yếu là những thước phim tư liệu khá đắt miêu tả cảnh di tản, cảnh công việc của những người Việt trong doanh trại Mỹ. Hồi thứ hai là diễn biến của những cuộc hội ngộ. Những bữa cơm đầm ấm, những cảnh sinh hoạt gia đình, cảnh chợ búa. Đến hồi thứ ba, đỉnh điểm là cao trào như trên. Trong phần kết, các tác giả miêu tả cảnh anh Tình đưa con gái đến trường bằng xe máy. Anh nói, chắc mình phải đi học tiếng Anh vì mình nói, có thể em Hiệp chưa hiểu. Còn bà Kim, cảnh bà đứng trước bàn thờ khấn vái, cầu tổ tiên phù hộ cho con Hiệp ăn nên làm ra, gửi tiền về xây mồ mả ông bà. Về phía Hiệp (Heidi), cô nói, đã hai năm trôi qua, cô cảm thấy mẹ và anh chị “như những người xa lạ’’. Cô muốn quên họ đi. Cô nhận được nhiều thư của họ, song “thư nào cũng chỉ xin tiền’’. Cảnh những lá thư lăn lóc. Với mẹ và các anh chị ở Việt Nam, cô đã đóng cánh cửa lại, nhưng không khóa. Cô cũng không có ý định đi tìm người cha nữa. Với hiện tại, cô còn phải giải quyết bao vấn đề.

Bìa cuốn sách The Life We Were Given
Bộ phim kết thúc nhưng gây ra bao xao động trong lòng người xem. Có nhiều lời bình luận của cả người Việt lẫn người Mỹ. Và dư luận dường như chia đôi. Người trách cô Hiệp. Người trách gia đình bà Kim. Người nói về sự khác biệt văn hóa. Riêng đối với những người làm phim tài liệu, có thể tham khảo nhiều vấn đề về nghề nghiệp, nhất là cách xây dựng cấu trúc. Và cách thể hiện quan điểm của người làm phim, khách quan một cách ẩn ý. Tôi muốn dừng lại một chút để nói về quá trình làm phim của hai đạo diễn Mỹ. Họ quay những thước phim đầu tiên từ đầu năm 1997. Trong suốt 5 năm, họ xây dựng cấu trúc, sưu tầm tài liệu, sắp xếp các cảnh quay, dựng phim đầy cảm xúc. Vì vậy họ đã hoàn thành bộ phim ở mức độ cao nhất. Trong khi đó, các nhà làm phim của ta chắc không có ai đủ kiên nhẫn để hoàn thành một bộ phim tài liệu trong 5 – 6 năm trời. Nghệ thuật làm phim còn có một tên gọi khác. Đó là sự kiên tâm. Bộ phim có thể xem bất cứ lúc nào trên internet. Chỉ cần gõ tên phim bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh, bộ phim sẽ hiện ra. Và để hiểu thêm về bộ phim, về các nhân vật, chúng ta có thể đọc thêm cuốn sách của chị Dana Sachs với nhiều thông tin vô cùng hấp dẫn. Chị đến Việt Nam từ năm 1990. Từ năm 2004, chị bắt tay vào việc tìm hiểu Chiến dịch Không vận Trẻ em. Trở đi trở lại giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, mãi đến năm 2010, mới viết xong cuốn sách trên. Dana viết ở trang cuối: “Tôi chỉ mong những gì tôi kể lại có thể truyền cảm hứng cho những ai bị tác động bởi chiến dịch này và hy vọng họ có thể chia sẻ với mọi người câu chuyện của chính họ, đặc biệt là với những thế hệ trẻ hơn, những người không tự mình nhớ được.’’
Đoàn Tuấn
Poster 'Thiên đường máu': Quách Ngọc Ngoan lộ diện là 'trùm ác', ra tay không thương tiếc với đối phương
Hiện tượng kinh dị Nhật Bản gây sốt phòng vé chuẩn bị 'khuấy đảo' mùa phim cuối năm tại Việt Nam
Hé lộ dàn diễn viên lồng tiếng 'Vua của các Vua': Món quà đặc biệt trong mùa Giáng sinh 2025
9 phim điện ảnh hay nhất 2025
'Nhà hai chủ': Chuyện kiêng kỵ trong xây cất vì sao lại quan trọng?
'Hoàng tử quỷ' hé lộ hai phân cảnh kịch tính, mãn nhãn của phim trước thềm khởi chiếu
'Now You See Me 3' gây thất vọng
Ngôi Sao Xanh 2025: Nội dung số bùng nổ trên không gian mạng và sự đa dạng từ phim truyền hình quốc tế