(TGĐA) - Khi những cái tên được xướng lên trong danh sách đề cử giải Quả Cầu Vàng 2015, nhiều người không khỏi ngạc nhiên khi Interstellar chỉ có một đề cử duy nhất cho hạng mục Nhạc nền xuất sắc. Có thể do phim quá nặng về những tình tiết khoa học vũ trụ khó hiểu, hoặc có thể do ban giám khảo Quả Cầu Vàng mắc phải “lỗi thiếu sót thường niên” nên dẫn tới sự việc đáng tiếc này. Tuy nhiên, Interstellar vẫn khẳng định được vị trí của nó trong lòng khán giả với bằng chứng là việc lọt vào top 11 phim hay nhất 2014 do Viện phim Mỹ bình chọn và top 10 phim được yêu thích nhất thế giới do IMDb đưa ra. Với hai danh hiệu trên thì sẽ chẳng sai chút nào khi Interstellar được ví là “Tuyệt phẩm về vũ trụ và tình cha con”.
Hấp dẫn, choáng ngợp bởi lượng kiến thức khổng lồ
Đúng như cái tên của mình, Interstellar lấy vũ trụ làm bối cảnh chính của phim và tình cha con làm chủ đề xuyên suốt. Mọi chuyện bắt đầu ở thời điểm tương lai không xa, khi mà Trái đất bị tàn phá bởi biến đổi khí hậu. Đa số các loại thực phẩm nông nghiệp đều không thể gieo trồng được nữa. Bầu khí quyển bị ni-tơ hóa chỉ thích hợp cho nấm mốc phát triển và bão cát bụi xảy ra liên miên. Con người đứng bên bờ vực tuyệt chủng, đối mặt với cái chết đến từ bệnh tật, đói nghèo và ô nhiễm.
Nhân vật chính Cooper (Mathew Mc. Conaughey đóng) từng là phi công thử nghiệm của NASA, nay đã trở về thành nông dân trồng bắp để nuôi gia đình. Anh đứng trước sự lựa chọn ở lại Trái Đất cùng hai đứa con nhỏ, hay tham gia vào một cuộc du hành xuyên vũ trụ để tìm ra giải pháp cứu cả nhân loại. Cuối cùng Cooper đã chọn con đường mạo hiểm, cùng một nhóm các phi hành gia đi xuyên không gian, bước sang một dải ngân hà khác để tìm kiếm sự sống ở ba hành tinh mới với hy vọng giải cứu Trái Đất. Nhưng trên hết, nhân vật chính muốn cứu lấy thế hệ của những đứa trẻ như con gái anh. Và khi đi xuyên qua hố đen, rơi vào lỗ sâu, thu thập đủ dữ liệu về vùng kì dị và gửi về cho con gái giải phương trình vật lý, anh nhận ra rằng mình đang ở nơi giao cắt của thời gian nhiều chiều – không gian phòng ngủ của cô con gái nhỏ mà anh yêu thương.
Với Interstellar, Christopher Nolan đã thể hiện khát vọng vươn tới khám phá vũ trụ bao la của loài người. Vị đạo diễn này đã rất khôn ngoan khi xây dựng kịch bản của ông và người anh trai Jonathan Nolan dựa trên những lý thuyết của nhà vật lý học Kip Thorne về lỗ đen và những bất thường trong vũ trụ. Chính vì lẽ đó, Interstellar xuất hiện dày đặc các thuật ngữ hàn lâm liên quan đến vấn đề này. Thậm chí mảng khoa học vũ trụ đôi khi còn lấn át mảng drama đôi chút. 45 phút đầu phim, đạo diễn Nolan tung ra hàng loạt những khái niệm, định lý, định luật và giả thuyết mà nếu không theo kịp thì khán giả sẽ khó mà nắm bắt được những diễn biến tiếp theo của bộ phim. Tuy nhiên, chỉ cần trang bị cho mình một chút kiến thức căn bản, tổng quan về vũ trụ, phim sẽ trở nên hấp dẫn vô cùng. Interstellar bám sát khoa học từ những chi tiết nhỏ cho tới cả những quang cảnh lớn. Hố đen, lỗ sâu, tàu vũ trụ... cho đến quang cảnh thiên hà và bầu trời đầy sao ngoài khung cửa sổ hiện lên trước mắt khán giả vô cùng chân thực, sống động.
Nhưng toàn bộ chuyến du hành, vũ trụ bao la bí ẩn chỉ là cái cớ để đạo diễn, biên kịch nói lên chủ đề tình cảm cha con. Hẳn là khi các bậc làm cha mẹ được hỏi: “Anh sẽ đi bao xa để cứu đứa con gái nhỏ của mình?”, câu trả lời sẽ luôn là: “Tôi sẽ đi xa hơn bất cứ nơi nào tôi cần đến”. Người cha Cooper với tình yêu con mãnh liệt đã làm tất cả mọi điều để bảo vệ và che chở cho con gái nhỏ của mình. Việc đầu tiên anh làm trong phim là cùng con gái Murphy giải mã thế lực siêu nhiên đang ám ảnh ở phòng ngủ của cô bé. Sau khi tìm ra nguồn gốc của hiện tượng đó, anh quyết tâm mạo hiểm tính mạng, du hành trong không gian bao la, tìm kiếm hành tinh thay thế Trái đất già cỗi. Để rồi cuối cùng, Cooper nhận ra rằng, nơi anh đi xa nhất lại chính là khối giao cắt thời gian nhiều chiều nằm trong không gian phòng ngủ của con gái anh. Qua khoảng giao cắt ấy, anh nhìn thấy quá trình trưởng thành của con gái qua hàng chục năm, trong khi ngoài vũ trụ anh mới trải qua vài giờ. Cooper hối hận vì đã ra đi, anh muốn được nhìn thấy con gái lớn lên, nhưng chỉ có thể hiện diện trong phòng ngủ qua chiếc giá sách, ngăn trở với con bởi không gian, thời gian. Còn cô bé Murphy, tuy xa cách hàng chục năm trời nhưng với tình yêu mãnh liệt với cha và niềm đam mê khoa học, cô đã trở thành nhà khoa học của NASA. Nhờ dữ liệu về vùng kì dị lỗ đen cha cô gửi về, Murphy đã hoàn thành phương trình vật lý để tìm cách lợi dụng trọng lực, đưa các trạm vũ trụ khổng lồ ra khỏi Trái Đất và gặp được cha.
Những chuyện hậu trường thú vị
Trở lại sau 2 năm kể từ khi The Dark Knight Rises ra mắt, đạo diễn Christopher Nolan đã chuẩn bị kĩ lưỡng để đưa khán giả bước vào cuộc phiêu lưu xuyên không gian. Thậm chí trong cuốn sách Interstellar – Beyond Time and Space: Insde Christopher Nolan’s Sci-Fi-Epic, vị đạo diễn lừng danh này tiết lộ ông đã ấp ủ ước mơ làm Interstellar từ khi còn nhỏ. Nolan đã xem Star Wars tổng cộng 12 lần tại rạp. Sau khi được cha dẫn đi xem A Space Odyssey năm 2001, ông quyết định đào sâu nghiên cứu việc làm ra phim này. Đạo diễn và anh trai Jonathan còn đứng quan sát nơi phóng Super 8 khi còn là những đứa trẻ. Còn người bác của họ làm việc cho chương trình không gian mang tên Sao Thổ. Tất cả những điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến cậu bé Nolan ngày nào. Về sau khi lớn lên, cậu đã từng mơ một ngày nào đó, nếu không trở thành nhà du hành vũ trụ thì cũng làm nên một bộ phim về đề tài không gian. Và ước mơ ngày nào đã được hiện thực hóa thành Interstellar.
Chính vì tâm huyết đó, Nolan đã chăm chút cho phim như cho con đẻ của mình vậy. Vị đạo diễn khó tính này hạn chế đến mức tối đa sự can thiệp của kĩ xảo điện ảnh với phông xanh đơn điệu. Những hình ảnh bầu trời đầy sao, thiên hà rực rỡ, hố đen bí ẩn, không – thời gian bẻ cong... đều được Nolan tạo ra và chiếu trực tiếp lên ô cửa kính của tàu vũ trụ. Ông muốn tạo ra cho diễn viên những cảm xúc thật nhất có thể, từ đó họ sẽ truyền cảm hứng tới cho người xem một cách thành công nhất. Công nghệ quay Imax được Nolan ứng dụng cho đứa con cưng Interstellar. Trong toàn bộ quá trình quay, ông sử dụng duy nhất một chiếc camera đạt chuẩn này, kích cỡ phim 35mm và 65mm. Với Nolan, chuẩn Imax màn ảnh sâu, rộng chứ không phải hiệu ứng 3D mới chính là công nghệ thích hợp nhất để vũ trụ hiện ra ám ảnh người xem. Bên cạnh đó, để quay được những cảnh ấn tượng trên hành tinh băng giá, ê-kíp Interstellar đã lao mình vào cơn bão ở Lousiana, vật lộn với thời tiết khắc nghiệt để đem tới cho người xem những trường đoạn hay.
Mathew McConaughey, Anne Hathaway, Michael Caine, Ellen Burstyn, Jessica Chastain và Casey Affleck, Matt Damon hay diễn viên nhí Mackenzie Foy là những tên tuổi “khủng” bảo chứng cho Interstellar. Bộ phim đã càn quét doanh thu phòng vé ngay từ khi mới ra mắt. Với 132.6 triệu đô la, phim đứng thứ 10 trong bảng xếp hạng những phim có ngày công chiếu thành công nhất năm 2014. Tính đến thời điểm hiện tại, Interstellar thu về được hơn 636 triệu đô phòng vé trên toàn thế giới, cao thứ 8 trong năm nay. Bên cạnh việc chiếu tại các cụm rạp thông thường, Interstellar còn càn quét cả các hệ thống chiếu phim chuẩn Imax từ ngày 14/12 và đem về hơn 100 triệu đô la. Con số này giúp phim giữ vững vị trí thứ 4 sau Avatar (228 triệu đô), The Dark Knight Rises (102.4 triệu) và Gravity (100.1 triệu). |
Thoa Nguyễn