Sự suy sụp của hệ thống hãng phim trong điện ảnh Mỹ

Từ thập kỷ 1960 trở đi, các nhà làm phim từ Los Angeles chuyển đến New York và San Francisco, tạo thành một liên minh lỏng lẻo để đạt được một sự độc lập tương đối nhằm đối đầu với sức mạnh của những chủ nhà băng và tài chính ở Hollywood. Họ hăng hái vì được tự do sáng tác, chiêu mộ và cộng tác với những nghệ sĩ  giỏi để sản xuất phim ở đây.

Đến thập niên 1950, truyền hình xuất hiện làm giảm đáng kể số khán giả đến rạp chiếu bóng. Các nhà làm phim và các ngôi sao khẳng định quyền độc lập của họ bằng cách tự sản xuất phim nên hệ thống hãng phim dần dần bị hủy bỏ.


Geogrge Lucas, nhà đạo diễn tài năng đã sử dụng số tiền lời từ phim ba phần Star War (1977-1983) thành lập một cơ sở sản xuất phim và một khu tổ hợp hiệu quả đặc biệt về kỹ nghệ âm thanh và ánh sáng ở phía bắc California. Tiếp đó là Francis Ford Coppola, đạo diễn kiêm nhà sản xuất phim bộ ba kinh điển Godfather (1972-1990) và Appocalypse Now (1979), và đạo diễn Philip Kaufman, người đã làm những phim The Right Stuff (1983) và The Unbrearable Lightness of Being (1988).

Poster phim Taxi driver


Những nhà kịch bản - đạo diễn như Spike Lee, Sidney Lumet, Paul Mazurky, Mike Nichols, và Martin Scorsese coi New York là địa điểm thích hợp để sản xuất phim. Đạo diễn Woody Allen cho rằng nơi đây và khu Rocky Mountains có thể trở thành một khu vực sản xuất phim lớn.

Phim của đạo diễn Scorsese nắm bắt khả năng tiềm tàng sống động và sự phát triển nhanh chóng của thành phố New York cùng với sự lộng hành của thế giới ngầm ở đây. Trong Mean Street (1973), ông gợi lại sự hỗn độn của khu Litlle Italy, Mahattan nơi ông đã từng sống thời trẻ. Trong Taxi Driver (1976), những khu phố đó trở thành tác nhân cho sự thay đổi của một cựu chiến binh chiến tranh bế tắc (Robert De Niro) luôn bị dày vò bởi những tội ác trên đường phố để rồi trở thành người hùng đi tìm kiếm và trừng phạt những kẻ tội phạm. Hai phim After Hours (1985) và GoodFellas (1990) là chất men cho cái ác bằng chất hài hước nhưng lại phản ảnh một cách rất hiện thực tính chất khốc liệt của thành phố New York.

Bộ phim Cape Fear (1991) của Scorsese, một tác phẩm hình sự tâm lý làm lại từ một bộ phim sản xuất năm 1962, là một cuộc đột kích vào cảm xúc của khán giả. Phần nhân bản trong câu chuyện – một cựu tội phạm (Robert De Niro) đã tự tìm kiếm để trả thù một luật sư (Nick Nolte) người đã phản bội anh ta – tính chất bạo lực trong phần cái ác hình như không dừng lại, nó tạo nên một tác phẩm sâu sắc từ chất liệu có vẻ đơn giản. Nó phản ánh tâm tư về những con người thiếu lý trí, về một thế giới mà những biến chuyển của nó khó kiểm soát được. Khán giả phải có một tinh thần mạnh mẽ khi xem Taxi DriverCape Fear chúng trình bầy những thách thức thiên về bản năng hơn về lý trí mà chỉ một vài phim có tinh thần phê phán kể từ trước đến thời điểm đó (còn được gọi là kỷ nguyên hãng phim) từng làm được.

Giống như Alfred Hitchcock trước kia, Scorsese là một trong số ít những đạo diễn của kỷ nguyên mà tên tuổi được ghi nhận như một sự đảm bảo cho sự thành công của phim. Các ngôi sao luôn có khả năng đó, họ được chứng tỏ bằng số cát-sê cao vời và bằng lượng khán giả không ngừng tăng lên.

Trước kia những nhà phát hành chỉ cần đặt tên “Charlie Chaplin” ra trước rạp chiếu còn thô sơ mà đám đông đã bu đến. Công thức đó có thể vẫn hiệu quả, nhưng sự đảm bảo thành công dễ dàng như xưa không còn nữa. Từ lúc đó, các hãng phim thường sử dụng diễn viên đóng phim theo vai: diễn viên John Wayne vào vai những kẻ cao bồi thô lỗ, Cary Grant là những gã quyến rũ phóng khoáng, Clack Gable là một anh chàng trưng diện đầy vẻ phô trương. Ngày nay, diễn viên Sylvester Stallone, người đạt được sự nổi danh trong vai những kẻ càn quét, có thể quyết định anh thích một vai hài, một kẻ tình nhân, hay một ca sĩ, nhưng kết quả có thể chỉ là thảm họa vì người hâm mộ trung thành với hình ảnh chứ không phải cái tôi của Stallon. Cũng giống như Clin Eastwood, Arnold Schwazenegger và một số diễn viên cơ bắp khác, diễn xuất hay nhất khi nói ít mà có nhiều hành động khốc liệt. Ví dụ như trong những phim hành động viễn tưởng hồi hộp Total Recall (1990) và Terminator 2: Judgement Day (1991) của Schwarzenegger. Ngoài ra, các ngôi sao còn được trợ giúp bởi hiệu quả đặc biệt, vì chúng đưa tên tuổi của họ ở trước rạp lên cao.

Năng lực của ngôi sao

Số lượng ngôi sao (thường xuyên thay đổi) đối với các nhà sản xuất vẫn là sự đảm bảo lớn nhất cho thị trường sản xuất phim. Năm 1990, diễn viên Kevin Costner từng hồi sinh thể loại phim cao bồi (được coi như thể loại cơ bản của điện ảnh Mỹ) với phim Dances with Wolves, một câu chuyện kể lại dưới cái nhìn của một kẻ ly khai và những người Mỹ thổ dân được lý tưởng hoá với bối cảnh miền tây. Phim tiếp theo của anh là Robinhood – Prince of Thieves (1991), một phim truyện tốn kinh phí vì trang phục quá đắt mà có lẽ nó không thể thực hiện được nếu thiếu nhiệt tình của Costner. Hầu hết các nhà phê bình cho rằng bộ phim chậm chạp và rối rắm, và Costner diễn thiếu lửa. Nhưng những người hâm mộ anh lại thấy Costner rất phù hợp trong vai diễn kẻ ngoài vòng pháp luật bằng lòng gan dạ nổi bật trong vai diễn của anh. Trong phim JFK (1991) của đạo diễn Oliver Stone, ngôi sao này đưa lại danh tiếng cho công tố viên Jim Garrison, người từng bị chê cười khi cố chứng minh rằng cuộc ám sát tổng thống John F. Kennedy là kết quả của một âm mưu chứ không phải do một kẻ ám sát. Sức thu hút của cá nhân Costner và diễn xuất hoá thân của anh đã chinh phục hàng triệu khán giả rằng sự buộc tội của công tố viên Jim Garrison là có cơ sở, từ đó có những tiếng nói thúc đẩy yêu cầu tìm hiểu lại vụ án mạng.

Kevin Costner là người từng tiếp bước diễn viên – đạo diễn Robert Redford, một nhà tuyên truyền rất trữ tình mà những ước vọng trong phim của anh không phai mờ theo tuổi tác. Đạo diễn kiêm nhà sản xuất Sydney Pollack coi Redford như một nhà làm phim tiên phong qua 20 năm hành nghề thành công của anh, ông từng bình luận “Redford có tinh thần kiên định đặc biệt, anh là một trong những diễn viên sống chết vì nghề diễn, người có thể tin tưởng để đóng vai những con người anh hùng được lý tưởng hóa mà vẻ huy hoàng ngời ngời trên khuôn mặt nhưng bên trong không hẳn như thế – giống như nước Mỹ vậy”. Giống như những ngôi sao của kỷ nguyên studio, Redford biết giữ phong cách của mình và duy trì nó. Hầu hết các vai của anh đó đều là những nhân vật khó quên như nhà báo điều tra trong All the President’s Men (1976), một thợ săn táo bạo trong Out of Africa (1985), và một tay cờ bạc trong Havana (1990). Có một vài diễn viên đi theo phong cách của anh nhưng lại dùng danh tiếng và tiền bạc để làm lợi cho mục đích của họ. Hiện nay Redford ít làm phim mà dành nhiều thời gian giúp đỡ các nhà làm phim trẻ chưa có kinh nghiệm và đấu tranh cho việc bảo vệ môi trường.

Luôn có sự phân biệt rõ ràng giữa những ngôi sao nổi tiếng có bản sắc, có dấu ấn riêng (như Greta Garbo và Marilyn Monroe, Fred Astaire và Clint Easwood) và những diễn viên sẵn sàng xuất hiện trong những vai vô danh, không hấp dẫn để tìm kiếm nghệ thuật điện ảnh chân chính và đáp ứng cho sự mong chờ của khán giả. Thế hệ sau đó – Better Davis và Katherine Hepburn, Spencer Tracy và Marlon Brando là những diễn viên – những hạt nhân kích thích sự sáng tạo của các ngôi sao tài năng hiện nay.

Dustin Hoffman là một ngôi sao sử dụng tài năng thiên phú của mình để sáng tạo thành công những nhân vật không theo tiêu chuẩn rất đáng ghi nhớ. Đó là Ratso Rizzo, một kẻ xoay xở thích mặc đồ phụ nữ trong phim Midnight Cowboy (1969); là một diễn viên hài bài trừ tôn giáo trong Lenny (1974); một diễn viên bắt buộc trong Tootsie (1982); một bậc kỳ tài bị bệnh tự kỷ trong phim đoạt giải Oscar 1988 Rain Man – đều nhận được những lời đánh giá cao từ các nhà phê bình và quần chúng khán giả.

Cùng nhóm của Hoffman là diễn viên Robert De Niro, một người New York, một ngôi sao hoàn toàn đa năng, xuất sắc, vai diễn của anh thường mang tính hình tượng. Sự hợp tác của anh với đạo diễn Scorsese trong các phim từ Mean StreetRaging Bull (1980) cho đến phim Cape Fear, 1991 là một trong vài sự kết nối giữ vững tính sáng tạo đã từng khởi xướng một cách tự phát ở New York, tiếp theo sự sụp đổ của các hãng phim ở Hollywood. De Niro gây ấn tượng tương tự trong các phim Deer Hunter (1978), vai một cậu thanh niên nhà quê bị chiến tranh làm thay đổi; và vai một bệnh nhân giảm trí nhớ trong phim Awakenings (1990).

Poster phim Sự im lặng của bầy cừu


Những diễn viên xuất sắc không bị đóng khung một loại vai gồm có Jack Nicholson và Gene Hackman, William Hurt và Harrison Ford. Trong phim của đạo diễn Oliver Stone Born on the Fourth of July (1989), diễn viên trẻ tài năng Tom Cruise đã lột tả sâu sắc hình ảnh một cựu chiến binh Việt Nam bị liệt chi, anh suýt đoạt được Oscar vai diễn nam của năm đó. Robin William, tốt nghiệp từ diễn viên hài truyền hình, đã có nhiều vai diễn với nét hài hước không khuôn mẫu và một cảm xúc tâm lý tinh tế đã làm khán giả và các nhà phê bình yêu thích. Cũng với tinh thần đó là các vai diễn sống động của William trong phim Good Morning, Viet Nam (1987) của đạo diễn Barry Levinson. Dead Poets Society (1989) của đạo diễn Bruce Beresford, và The Fisher King (1991) của đạo diễn Terry Gilliam.

Các diễn viên nữ thường phải chịu áp lực của những vai diễn rập khuôn nhiều hơn nam giới nhưng đặc biệt nữ diễn viên Meryl Streep đã thoát khỏi chuẩn hóa đó. Giống một con thằn lằn biến hình, không cần cố gắng nhiều chị có thể xoay chuyển từ vai một kẻ sống sót trong cuộc tàn sát tập thể của phim Sophi’s Choice (1982) đến một nữ anh hùng xuất thân từ tầng lớp dưới trong Silkwood (1983), hoặc một nữ quý tộc Đan mạch trong Out of Africa. Chị có thể thay đổi giọng trong các vai diễn hài lẫn bi với một kỹ năng đầy thôi miên. Cùng với chị là các nữ diễn viên như: Jodie Foster, Debra Winger, Glenn Close, Anjelica Huston, Susan Sarandon, Geena Davis, và Annette Bening, các nữ diễn viên có thể cạnh tranh với thế hệ diễn viên ấn tượng nhất mà Hollywood đã từng chứng kiến khi xưa trong thập niên 1930. Song song với tài diễn xuất, do sự nhạy cảm đặc biệt rất thuận lợi của phụ nữ họ còn đảm đương tốt trong cả những vai trò khác như: đạo diễn, sản xuất và giám đốc xưởng phim.

Ngày nay có rất nhiều những ngôi sao đóng những vai trò lớn đằng sau ống kính (như nhà sản xuất, đạo diễn và kịch bản). Trước đó, năm 1941, đạo diễn Orson Welles đã thuyết phục hãng phim RKO cho ông quyền kiểm soát hoàn toàn về nghệ thuật một bộ phim, từ phần đạo diễn, kịch bản đến dựng phim và ông bắt đầu bằng phim Citizen Kane. Bộ phim hiện nay được đáng giá cao như một phim kinh điển, nhưng vào lúc đó nó bị biến mất trong sự châm trích thiếu thân thiện của báo chí nên công chúng lạnh lùng với nó. Sự nghiệp của ở Welles ở Hollywood kết thúc do thất bại về tài chính của bộ phim này và đó là lý do để các ông chủ hãng phim kiềm chế những nhà làm phim độc lập khác. Trong số những diễn viên thử nghiệm nhiều vai trò như vậy rất thành công có hai người là diễn viên – đạo diễn Warren Beatty và Woody Allen, tuy họ đối chọi trên mọi quan điểm nhưng cống hiến đầy nhiệt tình của họ là vì tự do sáng tác trong nghệ thuật.

Warren Beatty sản xuất Bonnie và Clyde (1967), kể lại một hiện tượng về sự phạm tội của giới trẻ trong thời kỳ cuộc Đại khủng hoảng 1929, đây là phim thành công ở thời kỳ tiếp theo sau Kỷ nguyên hãng phim. Một thập kỷ sau, ông đưa ra các phim Shampoo (1975) và Heaven Can Wait (1978). Đáng kể nhất là phim Reds (1982), với cách diễn từng trải của nam diễn viên John Reed trong một câu chuyện về cuộc Cách mạng Tháng mười Nga và hậu quả của nó, Beatty bỏ đi cách dàn dựng kiểu cũ, ông tạo nên chất hùng ca trong phim về một hiện thực lịch sử được kể lại rất chi tiết. Trong Dick Tracy (1990), ông chọn việc miêu tả chân dung một kẻ phạm tội của thập niên 1930 theo một quan điểm tích cực được lột tả bằng những hình ảnh hài hước. Tác phẩm mang tính sáng tạo nữa của ông là Bugsy (1991) – một câu chuyện thật về cuộc đời của tay găng-xtơ Bugsy Siegel, kẻ đã đặt nền móng cho khu nghỉ mát Las Vegas giữa thập niên 1940 sau đó bị chính những tên mafia cùng làm ăn giết chết vì hắn đi quá giới hạn bản thân. Phim do James Toback viết kịch bản và Barry Levinson là đạo diễn, đây là bộ phim được đánh giá hay nhất năm 1991, Beatty là ngôi sao trong phim kiêm nhà sản xuất chính là người đã đưa ra tuyên ngôn về quyền tự do sáng tác đã định hình trong thập kỷ đó. Bộ phim này biến những tên găng-xtơ thành hình ảnh những người hùng Mỹ chân chính mang tính huyền thoại.

Beatty, bằng vẻ đẹp trai và phong thái tự tin nổi tiếng như một tay ăn chơi, rất khác biệt với Woody Allen, một người đeo kính rụt rè, bề ngoài có vẻ ngờ nghệch. Trong suốt 20 năm phấn đấu, Allen độc lập tạo ra những tác phẩm rất thành công. Ra mắt bằng phim Sleeper (1973), món quà Allen trình bầy là một phim hài mang tính châm biếm, nó sử dụng thủ thuật qua cách lấy những ý tưởng nghiêm túc trong cuộc sống để tăng thêm chất hài hước nhằm giải thích những hành động điên rồ của con người. Đều đặn như một chiếc đồng hồ, nhà đạo diễn – kịch bản Allen cùng cộng sự của ông cho ra đời mỗi năm một phim khác nhau cùng một chủ đề. Annie Hall (1985), Mahattan (1979), Hannah and her Sisters (1985) và Crimes and Misdemeanor (1989) đều thể hiện nét hài hước tự nhiên nhằm phê phán với tinh thần hiểu biết, vị tha của tác giả.

Như các ngành công nghiệp có tính cạnh tranh khác, Hollywood cố gắng đưa ra một loạt những sản phẩm đáp ứng yêu cầu cho mỗi thị phần của mỗi thị trường. Giống các ngôi sao được lăng xê, các thể loại phim được giới thiệu để các nhà quảng cáo và khán giả nhận biết. Phim hài, phiêu lưu hành động, và tình cảm là ba thể loại căn bản chính, rất thông dụng và phổ biến. Phim ca nhạc, xuất hiện từ khi có âm thanh cuối thập niên 1920, nở rộ tới thập niên 1950, sau đó bắt đầu giảm đi. Thể loại phim tâm lý xã hội đương đại về tội ác và bạo lực bắt nguồn từ thể loại găng-xtơ đầu thập niên 1930 đứng đầu bảng. Đề tài được khuyến khích tiếp theo là về các băng đảng và tham nhũng, hệ quả từ cuộc Đại khủng hoảng năm 1929; rồi đến thuốc phiện cũng là tác nhân cho sự thay đổi thể loại. Những thể loại đó có thể góp phần xua đuổi những cơn ác mộng của xã hội, nhưng sự bào chữa cho bạo lực trên màn ảnh thiên về bản năng hơn lý trí. Đạn nổ ban đêm trên đường phố, sự lộng hành của thế lực đen tối, xung đột giữa người tốt, kẻ xấu là chất liệu gây ấn tượng căn bản. Và khi một thể loại đưa ra bị nhàm chán, một thể loại mới lại nổi lên. Những câu chuyện mafia từng thời kỳ như những phim The Untouchables (1987), Good Fellas, Prizzi’s Honor (1985), Married to the Mob (1988), Dick Tracy, Barton Fink (1991), và Bugsy là những phim hiện thời rất phổ biến, là một khuynh hướng thể hiện nỗi luyến tiếc về một thời kỳ đã qua khi mọi điều đều đơn giản, tốt, xấu rõ ràng.

Không có công thức cho phim ăn khách

Trong những phim cổ điển, có sự phân chia giữa thể loại phiêu lưu - hành động của phái mạnh với những xung đột đầy máu lửa và thể loại tình cảm – trữ tình cho phái yếu với những câu chuyện đầy xúc cảm về tình mẹ và bệnh tật hiểm nghèo... Thật may mắn khi ngày nay các nhà đạo diễn và người viết kịch bản có thể đảo ngược những tiêu chuẩn trên để thổi sự tươi mát của cuộc sống vào tất cả các thể loại. Ví dụ bộ phim Thelma và Louise (1991) của đạo diễn Ridney Scott là một “phim về tình đồng đội” - một sản phẩm chính hiệu Hollywood xưa kia, nhưng với diễn xuất của hai nữ diễn viên (Susan Sarandon và Geena Davis), phim bộc lộ được tính nguyên tắc, độc lập, năng động của phụ nữ và chứng tỏ họ cũng có cá tính như bất cứ cặp nhân vật nam ngoài vòng pháp luật khác.

Phim ngày nay phần lớn là phim đa thể loại – nó bao gồm nhiều thể loại căn bản nhằm tiếp cận lớp khán giả hay thay đổi. Các nhà nghiên cứu tìm kiếm thị trường dù tốt nghiệp Đại học Thương mại Harvard, các nhà đại diện và sản xuất dù đã tiến hành những cuộc nghiên cứu sâu về khuynh hướng, tất cả vẫn có thể bị ảnh hưởng bởi thị hiếu thất thường của những người đến rạp xem phim. Năm 1989, ba phim ăn khách nhất đã lôi kéo khán giả như chúng được mong đợi từ lâu: Batman, một phim lạm dụng hiệu quả đặc biệt dựa trên một cuốn truyện hài; Indiana Jones and the Last Crusade, phần ba trong loạt ba phim hấp dẫn lấy cảm hứng từ một seri truyện trẻ em; và Lethal Weapon 2, một phiên bản phim hành động. Năm 1990, ba phim thắng lợi nữa (Ghost, Pretty WomanHome Alone) lại là những phim không bạo lực, kinh phí vừa phải và không có ngôi sao. Trong lịch sử 70 năm qua, một phim ăn khách có thể xuất hiện bất cứ lúc nào mà thành công của nó là bí mật thực sự khó giải thích.

Ghost là một phim tình cảm hài kỳ lạ, nó nhẹ như một cơn gió thoảng. Một cặp tình nhân xếp đặt kế hoạch cho tương lai nhưng đột nhiên chàng trai bị giết trên đường phố. Hồn ma của anh ở lại trần thế để bảo vệ vị hôn thê của mình và điều tra, trả thù tên sát nhân. Thiếu hình hài và vô hình, người anh hùng của chúng ta (được giúp đỡ bởi một cô đồng) loại trừ kẻ độc ác và đúng lúc đó bóng ma của chúng bị những con quỷ có cánh mang đi. Một nhà làm phim khác sẽ có thể theo dấu vết câu chuyện, lấy ý tưởng và xử lý ngược lại, mỗi thập kỷ trôi qua Hollywood từng thích ứng như vậy – trước đó, khoảng những năm 1990, đó đã là thủ thuật làm phim của nhà làm phim tiên phong người Pháp Georges Melies.

Trong Pretty Woman, một phiên bản phim làm lại trong đó nữ diễn viên Julia Roberts vào vai một gái điếm có trái tim bằng vàng và một cái nhìn ngọt ngào không nhơ nhuốc như bất cứ cô gái bình thường nào đã chiếm được tình cảm của một triệu phú ích kỷ. Nếu bạn đưa bà nội đi xem phim, chắc chắn bà cũng sẽ bị sốc như một cô gái trẻ khi xem bộ phim này. Qua những cảnh làm tình trực diện, diễn viên Roberts có sự quyến rũ ngây thơ của Marilyn Monroe trong phim The Seven Year Itch (1955); còn người bạn đồng diễn Richard Gere trong vai nhà triệu phú lại là một bức biếm họa quí phái về một nhà tư bản nhẫn tâm.

Home Alone, ra mắt để trở thành phim doanh thu cao nhất đứng thứ ba của mọi thời, là một câu chuyện cổ tích khác – một cậu bé tám tuổi hiếu động bị bỏ quên ở nhà khi cả gia đình bay đi Paris dự Lễ Giáng sinh. Đơn độc trong ngôi nhà to lớn, bằng trí thông minh cậu đối phó với hai tên trộm ngu ngốc, dựng cây thông cho mẹ (đang mong mỏi tìm chuyến bay trở về). Tính phổ thông của phim ẩn chứa trong đôi vai nhỏ bé của Macaulay Culkin vì cậu biết cách làm sống động một đứa trẻ hình như có thể thấy ở bất cứ đâu. Có thể tin cậu đã lấy ý tưởng trong khi xem những phim hoạt hình trong đó những kẻ độc ác bị đốt cháy, đâm xiên, rơi xuống băng tuyết… trong khi đứa trẻ vẫn an toàn.

Sáu phim khác có doanh thu trên 100 triệu đô-la tại các rạp ở Mỹ là: Teenagge Mutant Ninja Turtles, một phim hoạt hình hành động sinh động cho lứa tuổi dưới 15; The Hunt for Red October, một phim hồi hộp thời Chiến tranh lạnh trong đó một đại úy tầu ngầm của Nga là một anh hùng; ba phim ly kỳ hồi hộp khác; và Driving Miss Daisy (1989), một phim tình cảm ngọt ngào – chua xót về một phụ nữ Do thái lớn tuổi và tài xế của bà, phim đoạt Oscar phim hay nhất và một loạt những giải thưởng khác. Bất cứ sự khái quát hóa nào về sự sáng lập của Hollywood cũng đều dựa trên những mâu thuẫn như thế.

Poster phim Khiêu vũ với bầy sói


Nguồn cho đổi mới

Thế hệ làm phim mới có một sự kiện đáng ngạc nhiên là sự xuất hiện của những nhà làm phim Mỹ gốc Phi. Ba mươi năm trước, đạo diễn da đen Sidney Poitier được tôn vinh trong giới nghệ sĩ da trắng vì tài năng của ông và điều đó đã mở cánh cửa cho những nghệ sĩ da đen khác. Thập niên 1970, xuất hiện một làn sóng mạnh mẽ một loạt phim tâm lý tội ác về người Mỹ gốc Phi được giới phê bình khuyến khích vì cách xử lý nhạy cảm những vấn đề xã hội. Kể từ đó, người Mỹ gốc Phi có được những chỗ đứng trong ngành điện ảnh.

Spike Lee, một nhà sản xuất kiêm đạo diễn đi tiên phong khi sáng tạo thành công một loạt những phim hài nổi loạn phản ánh cuộc sống bình thường của cộng đồng da đen ở New York. Phim Do the Right Thing (1989) bắt đầu bằng sự miêu tả một cuộc sống êm đềm nhưng bỗng nhiên bùng nổ sự đối đầu mang tính bạo động giữa đám thanh niên da mầu và chủ một cửa hàng người Mỹ gốc Ý. Jungle Fever (1991) là một khám phá đau xót sự phức tạp của một chuyện tình khác chủng tộc. Malcolm X, phim sau cùng của Lee là chân dung gây tranh cãi về một lãnh tụ da đen nhiệt tình bị một đối thủ cạnh tranh giết vào thập niên 1960. Thành công về danh tiếng và tài chính của Lee đã khuyến khích giới làm phim trẻ gốc Phi làm phim để tìm kiếm kinh nghiệm. Thêm hai mươi phim được phát hành vào năm 1991 mà sự say mê trong nghề nghiệp và nét sinh động của những sản phẩm độc lập đó giúp công nghiệp điện ảnh Mỹ thêm uy tín.

Những nguồn khởi điểm không mong đợi như vậy giữ Hollywood luôn ở vị trí đứng đầu. Và những sự đổi mới đó thường nhất quán. Trong thập niên 1970, trường Đại học điện ảnh từng là nguồn chính; tuy nhiên, một vài sinh viên tốt nghiệp giỏi bị hạn chế khi cố gắng thích ứng với thị trường bằng những phim thương mại so với những tác phẩm có giá trị của họ. Tác phẩm Godfather phần III (1990) đáng thất vọng cùng những lời chỉ trích và thất bại từ phòng bán vé cho thấy nó không thể so sánh được với những bản phim kinh điển Godfather trước đó cũng của Francis Ford Coppola. George Lucas, thành công tuyệt vời trong American Graffiti (1973) và Star Wars, nay trở thành nhà sản xuất và đóng những vai trò khác. Sự nghiệp của Steven Spielberg, một tài năng khác rất nổi tiếng cuối thập niên 1970, đã có phong độ không ổn định so với thành công của phim E.T.- the Extra-Terrestrial (1982). Phim phiêu lưu bộ ba Indiana Jones (1981-1989) của ông thực hiện khi hợp tác với Lucas, đã thành công về tài chính, một vài phim khác nhận được những lời phê bính giá trị. Nhưng Hook (1991), phim chuyển thể truyện thiếu nhi Peter Pan, đã chìm nghỉm dưới sức nặng của giá thành và hiệu quả đặc biệt, dù có sự góp mặt nhiệt tình của các diễn viên Dustin Hoffman và Robin Williams.

Nhiều đạo diễn mới xuất hiện đã đạt được những lời đánh giá tốt đẹp. Jonathan Demme đánh dấu vai trò đạo diễn trong phim Melvin và Howard (1980), một phim hài thu hút về một người đã gặp nhà tỷ phú ẩn dật Howard Hughes và thừa hưởng gia tài của ông ta. Phim tiếp theo của ông trình bầy những trò lập dị và khác thường của nước Mỹ. Stop Making Sense (1984) là một phim sân khấu về Talking Heads, một nhóm nhạc rock có ý chí. Trong Something Wild (1986), một tay buôn cổ phiếu trẻ cứng nhắc đã giũ bỏ trách nhiệm trong hai ngày bị xô đẩy với một phụ nữ trẻ vô chính phủ. Married to the Mob là một cái nhìn hài hước vào cuộc sống trần tục của gia đình tội ác có tổ chức. Khán giả bất ngờ khi tác phẩm lạnh người đoạt rất nhiều giải Oscar The Silence of the Lambs (1991) ra mắt, đây là một phim tâm lý “mèo đuổi chuột” về một nhân viên tập sự trẻ (Jodie Foster) cố gắng phá án với sự giúp đỡ của một tên tội phạm ăn thịt người có trí tuệ (Anthony Hopkins) để theo dấu tên giết người hàng loạt.

Đạo diễn David Lynch có một cách nhìn điềm đạm về cuộc sống hàng ngày đầy ác mộng. Những phim đầu tay của ông rất được ưa chuộng, thường trình chiếu về khuya cho khán giả trẻ. The Elephant Man (1980), một chân dung đầy lòng trắc ẩn về một người đàn ông xấu xí, gớm ghiếc thời Victoria ở London và vị bác sĩ chăm sóc anh ta đã cuốn hút một người nước ngoài theo dấu. Blue Velvet (1986) đưa ra một cái nhìn siêu thực về tội ác lẩn quất dưới vẻ ngoài thân thiện, và Wild at Heart (1980) là một sự châm biếm mất trí của những bộ phim về lứa tuổi phạm tội vị thành niên.

Tim Burton là một nhà làm phim độc lập khác, người đã có bước nhảy vọt từ vài phim kinh phí thấp không theo qui ước cho đến phim Batman, sau đó là một phim hoàn thiện nhẹ nhàng, thần kỳ kiểu Frankenstein là Edward Scissorhands (1990) nói về chuyện tình giữa một phụ nữ bán mỹ phẩm và một nạn nhân của một bác sĩ điên rồ được kể lại một cách cảm động như sự kỳ lạ của nó. Holywood đã từng sản xuất những câu chuyện như vậy vào những năm đầu thập niên 1930; Burton làm mới thể loại này với con mắt đầy tính nghệ sĩ có sự góp phần của kỹ thuật hiệu quả.

Tương lai của Hollywood ra sao? Nhiều năm qua những nhà số mệnh không đoán được, họ thông báo rằng điện ảnh sẽ ngày càng ngốn nhiều kinh phí do cát –xê cho các ngôi sao và hiệu quả đặc biệt đã thổi phồng chi phí giả tạo. Người đến rạp giờ đây ở nhà để xem những phim mới phát hành trên truyền hình cáp hoặc là băng video với giá rẻ hơn so với việc đi tới rạp. Đó là vấn đề thường xuất hiện vào mỗi thập kỷ kể từ lúc những hãng phim đầu tiên được thành lập và những ngôi sao đầu tiên đòi nâng giá. Hàng triệu đô-la mà nữ diễn viên Mary Pickfork yêu cầu vào năm 1917 có giá trị ít nhất bằng 15 triệu đô-la là số cát-sê mà diễn viên Schwarzenegger nhận được với đồng tiền sụt giá hiện nay. Phim hay luôn là của hiếm – nhưng cũng có nhiều phim khi phát hành không để lại tiếng tăm. Điều quan trọng là điện ảnh Hollywood – dù tốn phí, quá tải, không thể biết trước điều gì – vẫn làm những phim mà cả thế giới muốn được xem.

Thúy Hoa (Tổng hợp từ Internet)