Trên thực tế, điện ảnh đã đến Việt Nam trước năm 1953 cả nửa thế kỷ, còn Điện ảnh cách mạng Việt Nam cũng đã bắt đầu hành trình của mình ngay từ những ngày đầu Cách mạng Tháng Tám thành công và nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập.
|
Tập thể nghệ sĩ khu A và khu B trước cửa hội trường lớn ở Đồi Cọ tháng 5-1952 khi còn là phòng Điện ảnh và Nhiếp ảnh |
Điện ảnh đã xuất hiện ở Việt Nam ngay từ những năm đầu Thế kỷ 20. Ngày 28/12/1895, điện ảnh - ngành nghệ thuật thứ Bảy - ra đời với buổi chiếu của hai anh em Auguste và Louis Lumière tại tầng hầm quán Grand Café ở Paris thì Ngày 28/4/1899 Gabriel Veyre - một trong những học trò của anh em nhà Lumière đã tổ chức buổi chiếu phim đầu tiên tại Hà Nội cho công chúng vào xem miễn phí nhằm tuyên truyền cho một ngành nghệ thuật mới. Rạp chiếu phim đầu tiên tại Việt Nam là Pathé, khánh thành ngày 10/8/1920 do một người Pháp là Aste xây dựng, nằm cạnh hồ Hoàn Kiếm Hà Nội. Bộ phim truyện đầu tiên quay ở Việt Nam, do “chuyên gia Pháp” thực hiện, làm hậu kỳ tại Pháp, là Kim Vân Kiều (Công ty Chiếu bóng Đông Dương) vào năm 1923, dài 1500m (khoảng 50 phút) dựa trên Truyện Kiều của Nguyễn Du, thể hiện như một vở tuồng với một số cảnh quay ngoại. Phim chiếu được vài buổi, bị chê ngây ngô, không lột tả được tinh thần, giá trị Truyện Kiều và đã thất bại. Nhiều người Việt Nam nung nấu làm phim Việt, tiêu biểu là ông Nguyễn Lan Hương - chủ hiệu ảnh Hương Ký ở Hà Nội đã thực hiện bộ phim hài Đồng tiền kẽm tu được ngựa, dài 6 phút và một vài phóng sự về đám tang vua Khải Định, lễ đăng quang vua Bảo Đại… Các phim chiếu được một số ngày ở Hà Nội nhưng thua lỗ nặng nên Hãng phim Hương Ký không thể tồn tại, ông Nguyễn Lan Hương trở lại nghề ảnh.
| Đạo diễn Khương Mễ đang làm việc tại khu điện ảnh Bưng Biền | |
Một số trí thức mới của Việt Nam vào cuối những năm 1930 tiếp thu văn hóa Pháp, dấy lên phong trào văn thơ, nhạc họa, sân khấu và nuôi ý định làm phim của người Việt. “An Nam Nghệ sĩ đoàn” được một số thanh niên yêu điện ảnh thành lập, cuối năm 1937 họ ký một hợp đồng sản xuất bộ phim truyện dài Cánh đồng ma với Công ty điện ảnh Nam Trung Hoa. Kịch bản do Đàm Quang Thiện (bút danh Nguyễn Văn Nam) viết. Phim không giữ được nội dung kịch bản vì hãng phim và đạo diễn người Trung Quốc có tên Trần Phi tùy tiện sửa lại. Tháng 7/1938, Cánh đồng ma chiếu ra mắt, bị chê bai, và bộ phim nói đầu tiên do người Việt Nam khởi xướng cũng đã thất bại như những phim ngắn trước đây.
Đầu năm 1938, hãng phim châu Á (Asia Film) của ông chủ hãng đĩa hát Asia Nguyễn Văn Đinh khởi quay bộ phim đen trắng 35 mm Trọn với tình có độ dài 90 phút do Nguyễn Phương Danh (tức Tám Danh) đạo diễn; kịch bản, quay phim và dựng phim do ông chủ hãng Nguyễn Văn Đinh đảm nhiệm. Phim được quay và làm hậu kỳ tại Việt Nam, đầu năm 1939 đưa ra rạp chiếu, tuy không thành công nhưng đây được coi là bộ phim nhựa đầu tiên hoàn toàn do người Việt làm tại Việt Nam.
| Ba thợ máy chiếu Trần Linh Thông - Nguyễn Mạnh Long - Đinh Quang An đang vận hành máy chiếu KPCM-35 của Liên Xô ở Đồi Cọ | |
Những dấu mốc từ đầu Thế kỷ 20 cho thấy khát khao có một nền điện ảnh Việt Nam của các bậc tiền nhân thật mạnh mẽ, nhưng trong hoàn cảnh thuộc địa, những “cánh én mỏng chẳng làm nên mùa xuân”!
Chỉ đến khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Chính phủ Cách mạng Việt Nam ngay lập tức tổ chức một bộ phận “Điện ảnh - Nhiếp ảnh” nằm trong Bộ Thông tin Tuyên truyền. Viết về điện ảnh trong những ngày đầu lập nước, cuốn Lịch sử điện ảnh Việt Nam tập I do Cục Điện ảnh xuất bản năm 2003, có đoạn: “Theo đồng chí Phan Nghiêm - một trong những người đầu tiên tham gia bộ phận điện ảnh - khi đó điện ảnh ta chỉ có một chiếc máy quay phim 35 mm chạy cót gọi là máy “Cine-sept” (mỗi lần lắp phim vào ca-xet chỉ được 7 mét phim). Máy có thể dùng vừa để quay phim, vừa để bấm từng hình như máy chụp ảnh”. Sau đó, ở Miền Bắc bộ phận “Điện ảnh - Nhiếp ảnh” đã quay được những đoạn phim: Hồ Chủ tịch từ Pháp trở về (1946), Pháp tấn công phố Hàng Than (1946), Trận đánh tại Ô Cầu Dền (1946), nhưng tiếc là những thước phim này chưa in tráng đã bị thất lạc. Những người tiên phong gây dựng điện ảnh đã cùng nhân dân bắt đầu cuộc kháng chiến trường kỳ, họ đã tháo chiếc máy chiếu cũ kỹ hiệu Patthé tháo từ rạp chiếu phim cùng chiếc máy quay “Cine-sept” lên Chiến khu, gây dựng cơ sở Điện ảnh cách mạng.
| Lớp đào tạo 6 công nhân máy chiếu đầu tiên cho điện ảnh Quân đội ở Đồi Cọ tháng 4-1952 | |
| Phòng quay phim truyện tại khu B năm 1958.Từ trái qua phải là các nhà làm phim Nguyễn Xuân Khang - Khương Mễ - Phan Chính | |
Trong khi đó ở Miền Nam, nhà quay phim tiền bối Khương Mễ in trong cuốn kỷ yếu Điện ảnh Bưng Biền - Điện ảnh cách mạng (NXB thành phố Hồ Chí Minh, 1998) ghi lại: Ngày 15/10/1947 Bộ Tư lệnh Khu 8 quyết định Tổ Nhiếp ảnh phát triển thêm bộ môn điện ảnh lấy tên là tổ Nhiếp - Điện ảnh trực thuộc Ban Tuyên truyền, Phòng Chính trị khu. Các “chiến sĩ điện ảnh cách mạng” dùng ghe cơ động tránh địch, di chuyển ra vùng địch hậu lấy nước ngọt và mua nước đá, biến ghe thành buồng tối in tráng phim, vừa đối phó với địch vừa vượt qua biết bao khó khăn, nguy hiểm giữa Đồng Tháp Mười ngập nước phèn để “làm điện ảnh mà không có điện”. Ngày 24/12/1948 phim tài liệu Trận Mộc Hóa (đạo diễn Mai Lộc) được chiếu ra mắt, là bộ phim tài liệu đầu tiên của Điện ảnh Nam Bộ, cũng là bộ phim hoàn chỉnh đầu tiên của Điện ảnh cách mạng Việt Nam.
| Quay phim An Sơn và đạo diễn Mai Lộc tập kết ra miền Bắc 1954 bên máy quay ARRIFLEX | |
Điện ảnh Khu 8 thực hiện những phim tài liệu lưu danh đến hôm nay như Chiến dịch Bến Tre, Chiến dịch Trà Vinh, Chiến dịch Cao Bắc Lạng, Chiến dịch La Ban - Cầu Kè, Lễ xuất quân Trung đoàn 115, Công binh xưởng, Dân công đắp cản chống tàu chiến địch... Tháng 6/1949, Điện ảnh Khu 9 được thành lập với tên gọi Tổ Cine K9, và thực hiện những bộ phim tài liệu Nhà in kháng địch, Trại Thiếu sinh quân, Xưởng dệt chị Thơm, Chiến dịch Sóc Trăng, Vụ mùa, Xưởng quân giới Khu 9, Hoan nghênh Phái đoàn Chính phủ trung ương… Cuối năm 1949, Điện ảnh Khu 7 ra đời và hoàn thành các phim Chiến dịch Bến Cát, Trận Bùng binh, Trận Trảng Bàng, Trận Rạch Đông, Trận Trảng Bom, Chiến khu Đ và phim khoa học Kỷ niệm 1 năm Phi-la-tốp. Những bộ phim đầu tiên ngùn ngụt ý chí cách mạng và tinh thần chiến đấu là nguồn động viên tinh thần to lớn đến đồng bào và chiến sĩ, cho đến hôm nay vẫn là nguồn tư liệu quý giá không gì có thể thay thế. Đến tháng 10/1951 ba Khu 8-9-7 sáp nhập thành Điện ảnh Nam Bộ, nay thường gọi là Điện ảnh Bưng Biền - một trong hai cái nôi đầu tiên của Điện ảnh cách mạng Việt Nam.
| Ông Đinh Quang An giới thiệu máy chiếu bóng KPCM-35 do Liên Xô viện trợ đầu tiên tháng 11 - 1950 cho đạo diễn Nguyễn Hồng Nghi | |
Ở Chiến khu Việt Bắc, bộ phận Điện - Nhiếp ảnh do ông Phan Nghiêm phụ trách nằm trong Nha Tuyên truyền và Văn nghệ (thành lập tháng 7/1950). Thu đông năm 1950, ông Phan Nghiêm trực tiếp “xuất quân” quay trận đánh mở đầu chiến dịch Biên giới, vậy là phim Trận Đông Khê thành hình với những tư liệu quý chưa từng có: hỏa lực đại bác của ta bắn vào, đồn Đông Khê cháy rực, giặc kéo nhau ra hàng từ hầm ngầm… Ông Phan Nghiêm quay tiếp phim Trao đổi tù binh ở Thất Khê, và cả hai phim này đã được giới thiệu Liên hoan Thanh niên thế giới tại Berlin - CHDC Đức như một sự ra mắt của những thước phim nóng hổi khói súng từ đất nước Việt Nam non trẻ. Cùng với ông Phan Nghiêm, một nhà điện ảnh tiền bối là ông Nguyễn Hồng Nghi (sau này là đồng đạo diễn bộ phim truyện đầu tiên của Điện ảnh cách mạng Việt Nam Chung một dòng sông - 1959), cũng là Tổng Thư ký đầu tiên của Hội Điện ảnh Việt Nam) quay bộ phim Dân công phục vụ tiền tuyến với những hình ảnh quý hiếm còn lưu lại: từng đoàn dân công gồng gánh, từng đoàn xe thồ, xe trâu trên những con đường ngoằn nghoèo ra tiền tuyến.
| Cảnh trong phim Trận Mộc Hóa của đạo diễn Mai Lộc - được chiếu ra mắt năm 1948 | |
Năm 1951, một số nhà điện ảnh Nam Bộ được cử mang phim ra Bắc chiếu, gồm Mai Lộc và Nguyễn Phụ Cấn (từ Khu 8), ông Mai Lộc là tác giả phim Chiến thắng Tây Bắc (1952) - phim 35 mm đầu tiên, đánh dấu bước tiến mới của điện ảnh Việt Nam, sau này ông đạo diễn phim truyện nổi tiếng Vợ chồng A Phủ; Lê Minh Hiền (sau này đạo diễn bộ phim hoạt hình Việt Nam đầu tiên Đáng đời thằng cáo - 1960) và Nguyễn Thế Đoàn (từ Khu 9) là những người đã ghi lại được những hình ảnh vô cùng quý giá của Bác Hồ tại Chiến khu Việt Bắc,với mục đích lúc đó là gửi vào Nam để đồng bào thỏa lòng mong nhớ Bác. Sau đó, có thêm các đồng chí từ Điện ảnh Bưng Biền tập kết ra Bắc, tổng số là 23 người, trong đó có nhiều tên tuổi đóng góp nhiều cho Điện ảnh cách mạng như Khương Mễ, Vũ Sơn, Cao Thành Nhơn, An Sơn, Nguyễn Đảnh, Hồ Tây, Trương Thành Hỷ… Ở miền Bắc, các nhà điện ảnh tiền bối chủ yếu xuất thân từ cán bộ tuyên huấn, nhiếp ảnh, với các tên tuổi còn lưu lại trong lịch sử Điện ảnh mạng như Phạm Văn Khoa, Phan Nghiêm, Nguyễn Hồng Nghi, Nguyễn Tiến Lợi, Nguyễn Đăng Bảy, Phan Trọng Quang, Nguyễn Ngọc Trung, Vũ Phạm Từ…
| Các ông Phan Nghiêm, Hồng Nghi, Vũ Phạm Từ chụp ảnh cùng đoàn làm phim Cây Tre Việt Nam của nữ đạo diễn Ba Lan Êlena | |
| Quay phim Nguyễn Thế Đoàn tại chiến khu Việt Bắc năm 1951 | |
Các nhà điện ảnh hai miền Nam Bắc quy tụ về Chiến khu Việt Bắc - cái nôi thiêng liêng của Điện ảnh cách mạng Việt Nam. Một vinh dự đến với các chiến sĩ - nghệ sĩ điện ảnh: Ngày 15/3/1953, tại Khu Đồi Cọ thuộc xã Điềm Mặc, huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 147/SL thành lập “Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Chụp ảnh Việt Nam”, vậy là tổ chức Điện ảnh Nhà nước chính thức của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thành hình từ Đồi Cọ. Ông Phan Nghiêm từng tâm sự: “Mỗi chúng ta đều như được chắp cánh bay lên. Một niềm tin tường dạt dào dâng lên khắp khu Đồi Cọ là nơi chúng tôi xây dựng điện ảnh tại Chiến khu Việt Bắc”. Còn đạo diễn Phạm Văn Khoa, người được giao phụ trách “cơ ngơi” điện ảnh Đồi Cọ mô tả: “Thời kỳ này, khu điện ảnh nhộn nhịp hẳn lên. Sáu mươi lăm chiếc nhà lá làm trên ba quả đồi ở rừng Cọ Việt Bắc ngày cũng như đêm, không lúc nào ngớt tiếng động cơ phát điện. Các bộ phận in tráng, thu thanh, máy chiếu, máy nổ, máy phóng thanh thi đua với nhau góp sức xây dựng ngành điện ảnh” (theo Lịch sử điện ảnh Việt Nam tập I).
| Tráng phim thủ công ở Đồi Cọ năm 1953 | |
Từ đó, chúng ta có những bộ phim tài liệu Việt Nam phản ánh cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp và chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu như Giữ làng giữ nước (1954), Điện Biên Phủ (1954) và rất nhiều tác phẩm điện ảnh vô giá khác, đánh dấu một chặng đường non trẻ nhưng hào hùng của Điện ảnh cách mạng Việt Nam những ngày đầu lập nước.
| Khu di tích Đồi Cọ hôm nay | | Những dấu mốc quan trọng trong những ngày đầu điện ảnh đến Việt Nam và sự hình thành nền Điện ảnh cách mạng Việt Nam đã tạo tiền đề cho những dấu son thành công của Điện ảnh Việt 70 năm qua và luôn giúp những người là điện ảnh vững bước trong chặng đường xây ngành công nghiệp điện ảnh Việt Nam hôm nay. |
| Những giá trị truyền thống của Điện ảnh cách mạng Việt Nam (TGĐA) - Khát vọng giải phóng dân tộc, giang sơn liền một dải là chủ ... |
| Chuyến tham quan 'về nguồn' ý nghĩa của Hội Điện ảnh Việt Nam (TGĐA) – Ngày 15/3/2019, ban lãnh đạo cùng các nghệ sĩ, hội viên Hội Điện ... |